1
ĐỘT NHIÊN, ĐỘC LẬP
Bữa đó cũng như mọi buổi sáng thứ Hai khác ở Singapore cho đến khi nhạc ngưng lại. Lúc 10 giờ sáng, giai điệu nhạc pop trên đài phát thanh bị cắt ngang bất thần. Những thính giả đầy hoang mang nghe người xướng ngôn viên long trọng đọc lời tuyên bố – 90 chữ làm thay đổi cuộc đời của nhân dân Singapore và Malaysia.
“Xét vì quyền đương nhiên của một dân tộc là được tự do và độc lập, tôi, Lee Kuan Yew, Thủ tướng Singapore, thay mặt nhân dân và chính phủ Singapore, xin tuyên bố và khẳng định rằng từ hôm nay, ngày 9/8/1965, Singapore là một quốc gia độc lập, dân chủ và có chủ quyền, được xây dựng trên các nguyên lý về tự do, công bằng và mưu tìm kiếm an sinh và hạnh phúc cho nhân dân trong một xã hội công bằng và bình đẳng hơn.”
Cách hai trăm dặm về phía Bắc, trên bán đảo Malaysia, Tunku Abdul Rahman cũng đang đưa ra lời tuyên bố của ông, xác định rằng: “Singapore sẽ thôi là một bang của Malaysia và sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, tách khỏi và độc lập đối với Malaysia, và chính phủ Malaysia công nhận chính phủ Singapore là chính phủ độc lập và có chủ quyền và sẽ luôn luôn làm việc trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với chính phủ đó.”
Chia tách! Điều mà tôi đã đấu tranh gian khổ để giành lấy nay đã được giải quyết. Tại sao? Và tại sao lại bất ngờ như thế? Đảo Singapore mới trở thành một bộ phận của Liên bang Malaysia (vốn bao gồm cả lãnh thổ Sarawak và Sabah trên đảo Borneo) mới được hai năm nay. Lúc 10 giờ sáng cùng ngày, tại Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, Thủ tướng giải thích với quốc hội:
“Sau cùng chúng ta thấy rằng chỉ có hai phương sách cho chúng ta: dùng biện pháp áp chế chính quyền hay các lãnh đạo Singapore vì những hành vi của một số lãnh đạo đó, và phương sách hiện chúng ta đang thực hiện, cắt lìa chính quyền bang Singapore vốn đã thôi không còn bày tỏ lòng trung thành với chính quyền trung ương nữa.”
Hạ viện lắng nghe trong im lặng hoàn toàn. Thủ tướng đang trình bày trong cuộc thảo luận vòng đầu về một dự luật do Phó thủ tướng Tun Abdul Razak đề xuất để thông qua Dự thảo Tu chính án Singapore 1965 ngay lập tức. Lúc 1 giờ 30 phút, cuộc thảo luận vòng hai và ba đã kết thúc và dự thảo được chuyển qua Thượng viện. Thượng viện khởi sự thảo luận vòng đầu lúc 2 giờ 30 và kết thúc thảo luận vòng ba lúc 4 giờ 30 cùng ngày. Chủ tịch nước, quốc vương Yang di–Pertuan Agong phê chuẩn dự luật cũng trong ngày hôm đó, kết thúc các thủ tục hiến định. Singapore được tách ra.
Theo phong tục Hồi giáo Malaysia, người chồng, chứ không phải người vợ, có thể tuyên bố “Talak” (Tôi li dị bà) và thế là người phụ nữ bị li dị. Họ có thể hòa giải và người chồng có thể tái hôn người vợ, nhưng không thể làm thế sau khi người chồng nói “Talak” ba lần. Ba vòng thảo luận tại lưỡng viện quốc hội chính là ba lần tuyên bố talak, qua đó Malaysia li dị Singapore. Dân chúng, người Malay chiếm đa số ở Malaysia và người Hoa đa số ở Singapore, đã không thể tồn tại hòa hợp. Sự kết hợp của họ bị cản trở vì sự bất đồng ngày càng tăng về vấn đề Liên bang Malaysia mới thành lập phải là một xã hội đa chủng tộc hay là một nước do người Malay thống trị.
Singapore lựa chọn hình thức li dị, chứ không phải các thủ tục pháp lý của vấn đề đó. Nếu mà phải li dị, thì tôi muốn bảo đảm rằng các điều khoản phải thực tế, khả thi và dứt khoát. Để chắc chắn rằng tuyệt đối không còn chút hồ nghi nào về tính chất dứt khoát của nó, chính phủ Singapore đã cho đăng hai lời tuyên bố đó trên tờ công báo đặc biệt phát hành sáng hôm đó. Tôi đã hỏi xin – và Thủ tướng Malaysia đã chấp thuận – văn bản tuyên bố của ông có kèm chữ ký
để bảo đảm không có chuyện lật ngược vấn đề, cho dù các nhà lãnh đạo khác hay đại biểu quốc hội Malaysia có bất đồng với bản tuyên bố này. P.S. Raman, Giám đốc đài phát thanh và truyền hình Singapore đã nhận được các văn kiện này từ tay thư ký Văn phòng chính phủ. Ông ta quyết định cho đọc lại toàn văn, bằng tiếng Malay, Quan thoại và tiếng Anh, trên ba làn sóng riêng cho từng thứ ngôn ngữ và cứ nửa giờ thì lặp lại một lần. Chỉ vài phút sau, các hãng thông tấn đã chuyển tin này đi khắp thế giới.
Tôi đã khởi đầu công việc ngày hôm đó, thứ Hai ngày 9/8, bằng một loạt những buổi họp với các công chức cao cấp, nhất là các vị có thẩm quyền cấp liên bang, để thông báo với họ rằng các bộ trưởng Singapore bây giờ sẽ nắm quyền kiểm soát. Lúc gần 10 giờ, khi bản tuyên bố sắp được phát đi, tôi đi gặp các viên chức thuộc các ngoại giao đoàn tại Singapore mà họ có thể tới dự họp gấp được. Tôi nói với họ về việc chia tách và nền độc lập của Singapore, và đề nghị chính quyền của họ công nhận.
Khi các nhà ngoại giao ra về, tôi mời vị phụ tá cao ủy Ấn Độ và tổng lãnh sự Ai Cập nán lại và đưa cho họ lá thư gởi Thủ tướng Shastri và Tổng thống Nasser. Ấn Độ và Ai Cập hồi đó, cùng với Indonesia, là những nước lãnh đạo phong trào Á Phi. Trong những thư ấy, tôi yêu cầu họ công nhận và ủng hộ. Với Ấn Độ, tôi yêu cầu giúp đỡ cố vấn để huấn luyện quân đội, và với Ai Cập, tôi xin một cố vấn để xây dựng lực lượng phòng vệ duyên hải.
Gần trưa, tôi đến Đài phát thanh và truyền hình Singapore để mở cuộc họp báo. Cuộc họp này có một kết quả bất ngờ ngoài dự kiến. Sau một vài câu hỏi và trả lời mở đầu, một phóng viên đã hỏi: “Ông có thể sơ lược cho chúng tôi về chuỗi sự kiện đã dẫn tới bản tuyên bố sáng nay không?”
Tôi đã kể lại những cuộc họp với Thủ tướng Malaysia tại Kuala Lumpur trong hai ngày trước đó:
“Nhưng Thủ tướng Malaysia nói rất đơn giản rằng không có cách nào khác, và sẽ có rất nhiều rắc rối nếu chúng ta cứ
nhất định tiếp tục thế này. Và tôi muốn nói thêm – Ngài thấy đó, đây là một thời điểm để – mỗi khi chúng tôi nhìn lại thời điểm ấy khi chúng tôi ký thỏa ước, vốn có lợi cho cả Malaysia lẫn Singapore, đó sẽ là một thời điểm đầy băn khoăn vì cả đời mình tôi đã tin tưởng vào sự hội nhập và thống nhất của hai miền lãnh thổ này. Đó là một dân tộc được nối kết nhau về địa lý, kinh tế và những mối dây thân thuộc… Các vị có phiền không nếu chúng ta ngưng một lát?”
Vào lúc đó, những xúc cảm dâng trào trong tôi và phải hai mươi phút sau tôi mới có thể lấy lại bình tĩnh và tiếp tục cuộc họp báo.
Đó không phải buổi truyền hình trực tiếp, vì đài chỉ phát sóng từ 6 giờ tối. Tôi yêu cầu P.S. Raman cắt bỏ đoạn tôi bị xúc động. Ông ta đã tích cực khuyên tôi đừng làm thế. Ông ta nói báo chí chắc chắn sẽ tường thuật sự kiện đó, và nếu ông cắt bỏ thì những tường thuật của họ sẽ khiến sự kiện có vẻ tồi tệ hơn. Tôi nhận ra Raman, một trí thức người Tamil sinh ở Madras và là một công dân Singapore trung thành, quả là một cố vấn khôn ngoan. Tôi đã theo lời khuyên của ông ta. Và do đó, nhiều người ở Singapore và nước ngoài đã thấy cảnh tôi không kiềm chế được xúc cảm của mình. Tối hôm đó, Đài phát thanh và truyền hình Malaysia ở Kuala Lumpur phát hình cuộc họp báo, có cả đoạn phim ấy. Với người Hoa, lộ ra sự kém cứng cỏi là một việc không nên. Nhưng tôi đã không kềm mình được. Có điều cũng an ủi là nhiều khán giả ở Anh, Úc và New Zealand đã nảy sinh thiện cảm với tôi và Singapore. Họ đang quan tâm tới Malaysia vì quân đội của họ đang bảo vệ liên bang này chống lại lực lượng “Đối đầu", một mỹ từ mà Tổng thống Sukarno của Indonesia dùng để gọi cuộc chiến không tuyên bố và quy mô nhỏ của ông ta nhằm chống lại cái Liên bang “thực dân mới” đang bành trướng này.
Tôi đã bị quá căng thẳng về mặt tình cảm, đã trải qua ba ngày đêm trăn trở khổ sở. Thiếu ngủ mãi từ tối thứ Sáu tại Kuala Lumpur, thể lực của tôi hầu như kiệt quệ. Tôi bị đè nặng bởi một mặc cảm phạm tội. Tôi thấy mình đã làm thất vọng hàng triệu người ở Malaysia: những kiều dân Ân, Hoa, Á Â
Á–Âu và thậm chí cả một số người Malay nữa. Tôi đã khơi dậy hy vọng cho họ, và họ đã đứng cùng dân Singapore để chống lại quyền lãnh đạo của người Malay, nguồn gốc cuộc tranh đấu của chúng tôi. Tôi thấy xấu hổ vì đã để mặc các đồng minh và người ủng hộ chúng tôi phải tự thân vận động, trong đó có cả các lãnh tụ đảng phái tại nhiều tiểu bang của Malaysia như Sabah, Sarawak, Perak, Selangor và Negeri Sembilan. Chúng tôi đã cùng nhau thành lập Minh ước Đoàn kết Malaysia để tập trung và phối hợp các hoạt động của chúng tôi nhằm huy động nhân dân đấu tranh cho một xã hội phi sắc tộc. Chúng tôi đã khởi sự xây dựng một liên minh có thể đòi hỏi chính quyền Liên hiệp ở Kuala Lumpur phải tạo một nước Malaysia cho người Malaysia, chứ không phải riêng cho người Malay – một công việc không dễ dàng gì, bởi vì chính phủ Liên hiệp đương quyền đang nằm dưới sự không chế của đảng UMNO (United Malays National Organization – Tổ chức quốc gia thống nhất người Malay) của Thủ tướng Malaysia.
Tôi cũng cảm thấy ray rứt và ân hận vì đã giấu diếm các thủ tướng Anh, Úc và New Zealand. Trong ba tuần qua, trong khi họ dành một sự ủng hộ lặng lẽ và mạnh mẽ cho tôi và Singapore để tìm một giải pháp hòa bình cho các vấn đề sắc tộc của Malaysia, thì tôi đã bí mật thương thảo về việc chia tách.
Những ý nghĩ này đã giày vò tôi trong suốt ba tuần lễ đàm phán với Razak, Phó Thủ tướng Malaysia. Khi mà cuộc đấu tranh ý chí ấy còn tiếp tục thì tôi còn giữ được bình tĩnh. Nhưng khi công việc đã xong thì cảm xúc lại hoàn toàn chế ngự tôi.
Trong khi tôi xúc động như thế thì các thương gia tại Chinatown (Phố Tàu) của Singapore lại quá đỗi vui mừng. Họ đốt pháo chào mừng việc được thoát khỏi nền cai trị sắc tộc của người Malay ở Kulua Lumpur và rải giấy hoa đỏ rực các đường phố. Tờ báo tiếng Hoa Sin Chew Jit Poh tường thuật rằng dân chúng đốt pháo để đánh dấu ngày trọng đại này và viết theo lối bóng gió tiêu biểu của người Hoa: "Có lẽ rằng họ đã tiến hành sớm lễ cúng Cô hồn.” Tờ báo cũng ỗ
thêm một đoạn khó hiểu: "Trong tâm can mỗi người là lời cầu nguyện của riêng mình.” Còn tờ Nanyang Siang Pau viết: "Trái tim có thể hiểu mà không cần nói ra.”
Soon Peng Yam, Chủ tịch Phòng thương mại Hoa kiều Singapore, công khai chào mừng việc Singapore tách khỏi Malaysia. Ủy ban của ông ta sẽ họp vào ngày hôm sau để thảo luận việc bảo trợ một buổi lễ mừng nền độc lập của hòn đảo này chung cho tất cả các nghiệp đoàn, hiệp hội, phường hội và các tổ chức dân sự. Ông ta nói: “Giới doanh nghiệp nói chung cảm thấy rất nhẹ nhõm trước những biến chuyển chính trị gần đây.”
Các nhà đầu tư cũng không cảm thấy nỗi băn khoăn của tôi. Việc chia tách đã làm bột phát hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngay ngày hôm đó, các phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán Singapore–Malaysia (chưa đổi tên kịp) tại Singapore và Kuala Lumpur đã ghi nhận một mức tăng gấp đôi khối lượng giao dịch so với những ngày hoạt động mạnh nhất của tuần trước. Ngày kế đó, các nhà đầu tư đã xác định độc lập là thuận lợi cho kinh tế và vốn đã luân chuyển mạnh hơn nữa. Giá của 25 trong số 27 chứng khoán công nghiệp đã tăng mạnh.
Tại trung tâm thành phố, ngược lại, đường phố vắng hoe vào buổi chiều ngày 9/8. Tối hôm trước, tôi đã thông báo cho John Le Cain, quận trưởng cảnh sát Singapore, về bản tuyên bố sắp tới, và đã đưa cho ông ta một lá thư của Ismail bin Dato Abdul Rahman, Bộ trưởng nội vụ liên bang, yêu cầu ông từ đây nhận lệnh từ chính phủ Singapore. Le Cain đã triển khai các đơn vị cảnh sát dự bị, các lực lượng bán quân sự chuyên đối phó với bạo loạn, đề phòng trường hợp những người Malay ủng hộ đảng UMNO tại Singapore gây loạn để chống đối việc chia tách. Dân chúng đã mau chóng cảm nhận được nguy hiểm nhờ vào kinh nghiệm từ hai vụ bạo động của người Hoa và Malay vào năm trước, 1964. Sự có mặt của các lực lượng chống bạo động với những xe chuyên dụng, trang bị vòi rồng và có lưới sắt bảo vệ cửa kính để chống tạc đạn, lại càng nhắc nhở người ta
cẩn thận. Nhiều người dân đã quyết định rời sở về nhà sớm hơn thường lệ.
Hôm đó trời nóng và ẩm, kiểu thời tiết tiêu biểu của tháng 8. Lúc chiều tối, trời dịu đi và tôi rất mệt mỏi. Nhưng tôi quyết tâm giữ nề nếp vận động hàng ngày để giảm căng thẳng. Tôi bỏ ra hơn một giờ để quật 150 phát banh gôn trong bãi tập trước Sri Temasek, tòa nhà lưu trú chính thức của tôi thuộc khuôn viên Istana (trước đây là Dinh chính phủ). Việc này khiến tôi thấy khỏe hơn và ăn tối ngon miệng hơn trước khi gặp gỡ ngài Head, Cao ủy Anh tại Kuala Lumpur.
Thư ký của tôi đã nhận được điện thoại gọi từ văn phòng ngài Antony Head vào 9 giờ 30 sáng hôm đó, và bởi vì lúc ấy là chỉ có 30 phút trước khi đưa ra bản tuyên bố nên thư ký của tôi báo rằng tôi rất bận. Head đã hỏi là có thể gặp tôi vào chiều tối được không. Tôi đã gửi điện sang đó đề nghị gặp lúc 8 giờ. Rồi chúng tôi nhất trí gặp gỡ lúc 7 giờ 50.
Vào giờ đó, ông ta tới Sri Temasek (vì lý do an ninh tôi đã không về nhà riêng ở đường Oxley) và thấy Wei Ling, con gái 10 tuổi của tôi trong bộ áo thun quần short đang chơi ở ngưỡng cửa.
Ông muốn gặp ba cháu hả? – nó hỏi ngài Head.
Đó quả là một lời chào không kiểu cách nhưng thích hợp, vì cùng với nền độc lập, những quan hệ của tôi với ông ta đột nhiên trở nên mơ hồ hơn. Tôi bước ra đúng lúc để chào đón khi ông ta bước ra khỏi xe, và tôi hỏi: “Ông sẽ nói chuyện nhân danh ai đây?”
Ồ, dĩ nhiên – ông ta đáp – ông biết đó, tôi được cử làm đại diện tại một chính phủ nước ngoài.
Chính xác là thế. Ông có được giao thẩm quyền để nói chuyện với tôi về quan hệ của Singapore với nước Anh không?
Không.
Vậy đây là cuộc gặp hai người, chỉ nói chuyện phiếm thôi.
Nếu ông muốn nó như thế.
Và nó đã như thế.
Khi mô tả cuộc gặp gỡ này cho một nhóm các phóng viên Anh và Úc vào cuối tháng đó, tôi đã cố gắng tạo ấn tượng ấy là cuộc chạm trán của hai đối thủ. Sự thực, suốt thời gian đó lòng tôi nặng trĩu. Thái độ của Head khiến tôi có ấn tượng. Cung cách của ông xứng đáng với một sỹ quan Vệ binh xuất thân từ trường Võ bị Sandhurst. Ông từng là Bộ trưởng quốc phòng hồi liên quân Anh–Pháp chiếm đóng kênh Suez năm 1956, và từ chức cùng lúc với Anthony Eden1, chấp nhận trách nhiệm cho vụ triệt thoái. Ông thuộc giới thượng lưu Anh, rất giỏi việc giữ bình thản trong mọi tình huống.
Ông ta đã cố hết sức để ngăn cản việc chia tách này. Ông đã tận lực để thuyết phục Thủ tướng Malaysia và chính phủ liên bang theo các chính sách có thể xây dựng sự thống nhất tại Malaysia. Cả ông ta, và Cao ủy Anh làm việc trực tiếp với Thủ tướng Malaysia và các bộ trưởng, cũng như Thủ tướng Anh Harold Wilson tại London đã dành cho tôi sự ủng hộ vô hạn để tìm một giải pháp hợp hiến cho cuộc tranh chấp giữa Singapore và Kuala Lumpur. Họ đã kiên định, một cách thành công, rằng tuyệt không nên dùng vũ lực. Nếu họ không làm thế thì hẳn kết quả đã đổi khác. Nhưng chia tách chắc chắn không phải giải pháp mà họ lao tâm khổ trí để tìm kiếm.
Nhưng bất kể sự có mặt của khoảng 63.000 lính Anh, hai hàng không mẫu hạm, 80 chiến hạm và 20 phi đội tại Đông
Á
Nam Á để phòng vệ Liên bang, ông ta cũng không thể chống lại sức mạnh của tinh thần sắc tộc Malay. Các lãnh tụ Malay, kể cả Thủ tướng Malaysia, e rằng nếu chia sẻ quyền lực chính trị với các sắc tộc khác, thì người Malay sẽ bị nuốt gọn. Đó chính là mấu chốt của vấn đề. Ông Head đã không hiểu điều này. Chính tôi ban đầu cũng không hiểu, nhưng tôi đã dần hiểu ra trước ông ấy vì tôi đã có nhiều thời gian tiếp xúc hơn với Tunku, Razak và Ismail. Và tôi nói được tiếng Malay, còn Head thì không. Tôi còn nhớ được những sự kiện biểu hiện sự rạn nứt và thù nghịch giữa người Malay và các sắc tộc khác trong quá khứ của tôi, nhất là những ngày học đại học Raffles vào năm 1940 và 1941. Tôi hiểu người Malay rõ hơn. Nên vào cuối tháng 6/1965, tôi đọc được tin rằng Thủ tướng Tunku ngã bệnh herpes (mụn rộp do vi khuẩn) tại London, tôi đã e rằng ông sẽ không chịu nổi nữa.
Head và tôi gặp gỡ trong khoảng một tiếng, và tôi đã cố trình bày rõ mọi chuyện cho ông. Nhưng làm sao tôi giải thích với ông được rằng, sau cuộc gặp gỡ tay đôi giữa tôi và Razak ngày 29/6 tại văn phòng của ông ấy tại Kuala Lumpur, tôi đã thấy chẳng còn hy vọng gì mấy về một giải pháp hòa bình cho các vấn đề của chúng tôi? Head và tôi đều tự kiềm chế trong cuộc trao đổi. Ông ta không đưa ra lời trách cứ nào, mà chỉ tỏ ra rất tiếc là tôi đã không thông báo kịp thời cho ông ta và chính phủ Anh về những diễn biến, về phần mình, tôi cảm thấy rất buồn vì phải giấu kín với ông ta về những diễn biến trong ba tuần trước khi kết thúc bằng việc chia tách. Tôi nghĩ ông trông cũng buồn bã vậy. Nhưng nếu tôi nói với Head rằng Tunku muốn chúng tôi tách khỏi Malaysia, mặc dù điều tôi muốn là một liên bang rộng rãi hơn, thì chắc hẳn ông ta đã tìm được cách ngăn chặn Tunku vì việc Singapore tách riêng và độc lập là đi ngược lại quyền lợi của Anh. Rồi những bạo loạn sắc tộc có thể đã phải được tính tới. Mười bảy giờ sau cuộc gặp gỡ, chính phủ Anh đã công nhận Singapore độc lập.
Sau khi Head ra về, tôi đã có rất nhiều thảo luận qua điện thoại với các đồng sự trong nội các để trao đổi ý kiến về việc tình hình đã ra sao và kiểm điểm lại các diễn biến. E
ngại một sự rạn nứt sâu xa trong nội các và trong những đại biểu quốc hội, tôi đã yêu cầu từng Bộ trưởng ký vào Thỏa ước chia tách ngay vì tôi biết rằng một số người sẽ kịch liệt chống đối.
Nhưng tôi phải tiếp tục với việc điều hành đất nước Singapore mới mẻ này. Gần như suốt ngày hôm đó tôi làm việc với cộng sự thân tín là Goh Keng Swee, chúng tôi phải giải quyết các vấn đề an ninh và quốc phòng. Tôi đã quyết định sáp nhập Bộ Nội vụ với Bộ Quốc phòng và giao cho ông ta phụ trách. Nhưng rồi ai sẽ thay ông ta làm Bộ trưởng tài chính? Chúng tôi nhất trí chọn Lim Kim San. Vấn đề kế tiếp là sự công nhận quốc tế và những quan hệ tốt đẹp với những nước có thể hỗ trợ giữ gìn an ninh và sinh tồn cho Singapore. Chúng tôi đã nhất trí rằng S. Rajaratnam, thành viên sáng lập của đảng PAP (People’s Action Party – Đảng hành động nhân dân) của chúng tôi, sẽ đảm trách Bộ Ngoại giao. Chúng tôi vẫn trong tình trạng rối loạn, chưa thích nghi với thực tế mới mẻ và lo sợ những bất trắc ở phía trước.
Chúng tôi đối mặt với một tương lai u ám. Singapore và Malaysia, nối với nhau bằng một con đường đắp băng qua eo Johor, vốn đã do người Anh cai trị như một lãnh thổ thống nhất. Malaya là nội địa của Singapore, cũng như của Sarawak, Brunei và Sabah trên đảo Borneo vậy. Tất cả là bộ phận của Đế quốc Anh tại Đông Nam Á, với Singapore đóng vai trung tâm hành chính và thương mại. Bây giờ chúng tôi phải đứng một mình, còn chính phủ Malaysia lại muốn dạy chúng tôi một bài học vì đã cứng đầu, đã không chịu tuân theo các tiêu chuẩn và tập quán của họ và thích nghi với cơ cấu của họ. Chúng tôi có thể chờ đợi họ loại chúng tôi khỏi vị trí cửa ngõ xuất nhập khẩu hàng hóa và nguồn cung cấp nhiều dịch vụ khác. Trong một thế giới đầy những quốc gia mới, mọi nước đều theo đuổi các chính sách kinh tế quốc gia, ai cũng muốn tự mình làm lấy mọi thứ và trực tiếp làm việc với những khách mua khách bán ở châu Âu, Bắc Mỹ hay Nhật Bản, làm sao Singapore đứng vững khi không có nội địa phía sau? Như thế, làm sao chúng tôi sống được?
Ngay cả nguồn nước sinh hoạt của chúng tôi cũng đến từ bang Johor của Malaysia. Tôi còn nhớ rất rõ người Nhật đã chiếm những hồ dự trữ nước ở đó vào đầu tháng 2/1942 như thế nào, rồi nhờ đó tiêu diệt lực lượng phòng thủ Anh ra sao, tuy rằng lúc đó vẫn còn nước trong các hồ chứa tại Singapore.
Một số quốc gia được độc lập từ khi lập quốc, một số khác phải giành mới được. Singapore thì bị bắt phải độc lập. Khoảng 45 cựu thuộc địa của Anh đã tổ chức trọng thể các buổi lễ để chính thức hóa và chào mừng việc chuyển giao quyền lực từ người Anh sang chính quyền bản xứ. Còn Singapore, ngày 9/8/1965 chẳng là dịp lễ nghi gì cả. Chúng tôi chẳng hề mưu cầu độc lập. Trong một cuộc trưng cầu dân ý ba năm trước đó, chúng tôi đã thuyết phục 70% cử tri đoàn bỏ phiếu tán thành sáp nhập với Malaya. Kể từ đó, nhu cầu của Singapore muốn trở thành một phần của Liên bang trong một chính thể chính trị, kinh tế và xã hội đã không hề thay đổi. Đã không có gì thay đổi – chỉ có điều chúng tôi bị loại ra ngoài. Chúng tôi đã nói rằng một Singapore độc lập là không thể đứng vững. Bây giờ nhiệm vụ chẳng ai muốn của chúng tôi là làm cho Singapore sống được. Làm sao chúng tôi xây dựng được một quốc gia từ một tập hợp đa ngôn ngữ gồm các kiều dân từ Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia và nhiều nước châu Á khác?
Singapore là một hòn đảo với diện tích 214 dặm vuông lúc triều thấp. Nó phát triển vì nó là trung tâm của Đế quốc Anh tại Đông Nam Á, sau chia tách, nó trở thành một trái tim mà không có thân thể. 75% của số dân 2 triệu người ở đây là người Hoa, một thiểu số nhỏ xíu trong một quần đảo có tới 30.000 đảo với cư dân gồm hơn 100 triệu người Malay hoặc người Indonesia Hồi giáo. Chúng tôi là một hòn đảo người Hoa giữa một biển người Malay. Làm sao chúng tôi tồn tại được trong một môi trường thù địch như thế?
Tình trạng thù địch là quá rõ ràng: Để gây thêm khó khăn, người Indonesia còn tiến hành phong trào “Đối đầu” chống lại Malaysia khi Liên bang này hình thành vào tháng 9/1963, đó là một cuộc chiến cấp thấp bao gồm sự tẩy chay
kinh tế, những hành động khủng bố do những biệt kích xâm nhập vào Singapore để đánh bom và những tấn công quân sự bằng cách nhảy dù vào Johor. Người Hoa ở Malaya và Singapore biết rằng chính quyền Indonesia cũng chèn ép ngay cả ba triệu Hoa kiều sống trên đất Indonesia.
Trong khi đó, không những hoạt động nhập và tái xuất vốn là chỗ dựa của Singapore từ khi được thành lập năm 1819, phải đối mặt với một tương lai bất trắc, mà ngay vị trí chiến lược của nó đối với người Anh trong việc kiểm soát khu vực này của đế quốc cũng biến mất khi Đế quốc Anh tan rã. Nền kinh tế của Singapore sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi sự hiện diện của người Anh đột ngột cắt giảm. Chi phí quân sự của Anh tại Singapore đem lại đến 20% GDP, quân đội này tạo công ăn việc làm trực tiếp cho 30.000 công nhân và công việc gián tiếp cho 10.000 nhân công nữa, chưa kể những người cung ứng cho họ những dịch vụ khác. Quân đội Anh đã tạo công ăn việc làm cho hơn 10% lực lượng lao động vào thời điểm mức tăng dân số 2,5% mỗi năm đang gây áp lực lớn với chính phủ về vấn đề nhân dụng cũng như giáo dục, y tế và nhà ở.
Nhưng trong lúc này, tôi thấy an tâm và nhẹ nhõm là chúng tôi đã trải qua ngày hôm đó mà không gặp rối loạn gì. Quá nửa đêm tôi mới lên giường, mệt mỏi nhưng không buồn ngủ. Mãi đến 2 hay 3 giờ sáng tôi mới kiệt sức ngủ thiếp đi, thỉnh thoảng vẫn giật mình không an giấc khi tiềm thức của tôi vật vã với các ưu tư. Làm sao tôi giải quyết được chúng? Tại sao chúng tôi lại đi tới chỗ đáng tiếc này? Phải chăng đây là kết quả sau cùng của 40 năm học tập, làm việc và đấu tranh? Tương lai sẽ có gì cho Singapore? Tôi sẽ dành 40 năm kế tiếp để tìm cho ra câu trả lời cho các câu hỏi hóc búa ấy.
2
LỚN LÊN
Hồi ức sống động và xa xưa nhất của tôi là chuyện bị xách lỗ tai trên miệng giếng trong khuôn viên một tòa nhà gia đình tôi sống hồi đó, nơi bây giờ là đường Tembeling của Singapore. Lúc ấy, tôi được chừng 4 tuổi.
Tôi rất nghịch ngợm và đã phá phách hộp dầu chải đầu hiệu 4711 màu xanh nhạt thơm phức và đắt tiền của cha tôi. Tính tình của ông rất nóng nảy và tối hôm đó cơn giận của ông đến tung cả mái nhà. Ông tóm lấy gáy tôi, lôi từ trong nhà ra giếng và xách tôi lơ lửng ở trên đó. Làm sao tai tôi lại dai đến nỗi không toác ra cho tôi rơi xuống giếng như thế? Năm mươi năm sau, vào thập niên 1970, tôi đọc trong tờ Scientific American một bài báo giải thích sự đau đớn và chấn động đã tiết chất peptit vào não bộ thế nào, rồi ghi dấu ấn sâu đậm trong các tế bào thần kinh nên chắc chắn rằng biến cố đó sẽ được ghi nhớ mãi rất lâu sau này.
Tôi chào đời ở Singapore ngày 16/9/1923 trong một căn nhà lớn hai tầng số 92 đường Kampong Java. Mẹ tôi, bà Chua Jim Neo lúc đó 16 tuổi. Cha tôi, ông Lee Chin Koon, mới 20. Ông bà hai bên của tôi đã tổ chức đám cưới cho cha mẹ tôi một năm trước đó. Cả hai gia đình hẳn đã nghĩ như thế là môn đăng hộ đối, vì sau này họ còn cưới em gái cha tôi cho em trai mẹ tôi nữa.
Cha tôi là con nhà giàu có. Ông thường tự hào kể với chúng tôi rằng khi còn nhỏ, cha của ông, tức ông nội tôi, đã cho ông một sổ nợ vô giới hạn tại hai cửa hàng bách hóa hàng đầu trong thương xá Raffles hồi đó là Robinson và John Little, tại đây ông có thể ghi sổ bất cứ bộ quần áo hay món hàng nào mà ông muốn có. Ông được học chương trình Anh tại Học viện Thánh Joseph, một trường học Thiên chúa
giáo do các ông cha dòng De La Salle thành lập năm 1802. Ông kể rằng ông đã đậu tiểu học, sau đó ông thôi học khiến cả ông lẫn mẹ tôi còn tiếc mãi. Không nghề nghiệp, ông chỉ có thể xin được chân bán hàng cho Công ty xăng dầu Shell khi tài sản của cả hai nhà nội ngoại đều tan tành vì cuộc Khủng hoảng kinh tế thế giới.
Lịch sử gia đình tôi tại Singapore bắt đầu với ông cố nội của tôi, Lee Bok Boon, một người Hakka (người Hẹ). Người Hakka là người Hán miền đồng bằng Hoa trung và Hoa bắc di cư đến Fujian (Phúc Kiến), Guangdong (Quảng Đông) và các tỉnh khác ở Hoa Nam khoảng 700 đến 1.000 năm trước, và vì là kẻ đến sau, họ chỉ có thể sống chen chúc trên những mảnh đất đồi kém màu mỡ không có dân địa phương cư ngụ. Theo văn bia trên mộ ông cố ở sau căn nhà của ông tại Trung Quốc, Lee Bok Boon ra đời năm 1846 tại làng Tangxi, quận Dabu, Guangdong. Ông theo tàu di cư sang Singapore. Gia đình chẳng biết gì về ông từ sau đó đến năm 1870 khi ông cưới một cô gái người Hoa, Seow Huan Neo, sinh tại Singapore trong gia đình một tiểu thương.
Năm 1882, ông cố tôi quyết định rằng mình đã kiếm được đủ tiền để trở về làng quê ở Trung Quốc, xây một cái nhà lớn và trở thành quan chức trong làng. Tuy nhiên, bà cố nội tôi không muốn xa gia đình bà ở Singapore để tới một nơi chưa từng biết tới. Theo lời ông nội tôi, lúc đó mới 10 tuổi, các con cái và bà cố nội tôi đã sang trốn bên nhà gia đình bà trên đường Ah Hood. Ông cố Lee Bok Boon trở về Trung Quốc một mình. Ở đó ông lấy vợ khác, xây một căn nhà lớn và đường hoàng mua một chức quan nhỏ. Ông cho vẽ chân dung mình trong quan phục rồi gửi sang Singapore cùng một bức khác vẽ một ngôi nhà kiến trúc kiểu Trung Quốc truyền thống cùng một khoảng sân và những mái ngói xám. Bức tranh về căn nhà thì nay đã mất, nhưng bức chân dung ông cố tôi thì còn.
Ông nội tôi, Lee Hoon Leong – mà tôi vẫn quen gọi là Kung, trong tiếng Trung Quốc nghĩa là ông – sinh ra ở Singapore năm 1871, cha tôi nói ông nội học tại Học viện Raffles tới lớp 5, tương đương với năm đầu cấp trung học Ô
ngày nay. Ông nội kể cho tôi nghe là ông làm việc pha chế thuốc trong tiệm thuốc khi thôi học, nhưng vài năm sau, ông đi làm quản lý trên một con tàu chở hàng đi lại giữa Singapore và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan2. Con tàu này thuộc một đội tàu của hãng Heap Eng Moh Shipping Line mà ông chủ là Oei Tiong Ham, một triệu phú người Tàu làm vua ngành đường mía ở Java.
Trong một đợt nghỉ, ông cưới bà nội tôi, Ko Liem Nio, tại Semarang, một thành phố miền trung Java. Có một văn bản bằng tiếng Hà Lan, ghi ngày 25/3/1899, do Tòa mồ côi Semarang3 cấp phát, cho phép Ko Liem Nio, 16 tuổi, được cưới Lee Hoon Leong, 26 tuổi. Phần bối thự ghi ở mặt lưng cho biết hôn lễ đã được cử hành ngày 26/3/1899. Cha tôi ra đời tại Semarang năm 1903. Nhưng ông là thần dân Anh theo dòng dõi, vì cha của ông – Kung – là dân Singapore. Sau khi có con, Kung mang vợ con trở về Singapore và sinh sống suốt đời ở đó.
Tài sản của ông tăng dần khi ông được Oei Tiong Ham tin cậy và ủy quyền cho ông quản lý mọi công việc của hãng tại Singapore. Kung nói cho tôi nghe ông đã được tin cẩn thế nào đến độ năm 1926, bằng quyền hạn của mình, ông đã tặng 150.000 đôla, hồi đó là số tiền rất lớn, từ quỹ của ông Oei cho việc xây dựng đại học Raffles.
Giữa cha tôi và ông nội tôi thì không thể xác định tôi kính trọng ai hơn. Ông nội thương và nuông chiều tôi. Còn cha tôi, người giữ kỷ luật trong gia đình, thì khó tính với tôi. Ông nội tôi đã gầy dựng được một gia sản lớn. Cha tôi chỉ là cậu con nhà giàu, chẳng có gì để kể về chính ông.
Khi tài sản gia đình suy kiệt trong thời khủng hoảng kinh tế thế giới vốn làm giá cao su giảm từ 80 xu một cân Anh (khoảng 450gr) năm 1927 xuống còn 20 xu năm 1930, Kung đã bị thiệt hại nặng. Rõ ràng ông không khôn ngoan trong kinh doanh bằng ông ngoại tôi là Chua Kim Teng. Tài sản của ông ngoại Chua cũng bị thiệt hại vì ông đã đầu tư vào đồn điền cao su và đầu cơ trong thị trường cao su. Nhưng ông cũng thâm nhập thị trường bất động sản nữa.
Ô
Ông sở hữu nhiều sạp chợ và cửa hàng nên không bị sụp đổ hoàn toàn như ông nội Kung của tôi. Nên năm 1929 cha mẹ tôi đã dọn từ nhà ông nội sang ở trong căn nhà lớn mà bừa bộn của ông ngoại trên đường Telok Kurau.
Ông nội tôi đã bị Tầy phương hóa, do nhiều năm làm việc trên tàu buôn chung với người Anh, từ thuyền trưởng, máy trưởng tới các nhân viên. Ông thường kể lại cho tôi nghe những kinh nghiệm và chuyện trên tàu thì người ta kỷ luật tới mức nào. Thí dụ, dù cho khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, thuyền trưởng và các thuộc viên vẫn phải mặc bộ đồ vải trắng gài nút kín cổ để ăn tối với đầy đủ dao muống nĩa và khăn ăn được bày dọn đàng hoàng. Qua lời ông kể về những chuyến hải hành trong khu vực thì rõ ràng các sỹ quan Anh ấy đã để lại trong ông dấu ấn sâu đậm về tính trật tự, sức mạnh và hiệu năng.
Khi tôi ra đời, gia đình đã hỏi ý một người quen thông thạo chuyện con cái để tìm tên tốt đặt cho tôi. Ông đã đề nghị chữ “Kuan Yew”, trong tiếng Quan thoại là guang yao, nghĩa là “thông minh và sáng láng”. Nhưng ông nội tôi, vì lòng ngưỡng mộ nước Anh, đã thêm cho tôi tên Harry, nên tên tôi thành Harry Lee Kuan Yew. Hai em trai tôi, Kim Yew và Thiam Yew, cũng có tên thánh Tây phương như thế – lần lượt là Dennis và Freddy. Thời đó ít có người Hoa không theo đạo Thiên chúa lại có tên thánh như thế, nên sau này đi học tôi thấy mình kỳ cục với cái tên Harry. Khi em út của tôi, Suan Yew, ra đời năm 1933, tôi đã thuyết phục cha mẹ tôi đừng đặt tên thánh làm gì vì gia đình đâu có theo đạo Thiên chúa.
Tuy ông nội tôi không còn đủ tiền để sống và ăn mặc đúng cung cách nữa, nhưng ông vẫn còn giữ được những dấu tích của thời sung túc trước đây, trong đó có mấy món đồ nội thất rất đẹp nhập từ Anh hồi thập niên 1910. Hơn nữa, ông còn là tay sành ăn. Mỗi bữa ăn với ông là một nghi thức. Bà nội tôi nấu ăn cũng giỏi. Bà có thể chiên thịt bò với nhục đậu khấu tới vàng sậm mọng nước, dọn chung với khoai tây được chiên vàng ươm nhưng không nhẫy mỡ, vốn là chi tiết mà ông nội tôi rất để ý. Tôi có ấn tượng rõ ràng
rằng ông nội tôi là người đã vươn lên trong cuộc sống và biết sống sao cho ra sống.
Ông khác biệt rất rõ với ông ngoại tôi. Ông Chua Kim Teng không hưởng nền giáo dục Anh và cũng không làm ăn hợp tác với các viên chức Anh hay các triệu phú người Hoa trong ngành đường. Ông sinh ra ở Singapore năm 1865 trong gia đình gốc Hakka ở Malacca. Ông giàu lên nhờ làm lụng chăm chỉ và sống tiết kiệm, dùng tiền để dành được đầu tư một cách thận trọng vào ngành cao su và bất động sản.
Ông đã lấy vợ ba lần. Hai người vợ đầu đã mất và bà vợ thứ ba là bà ngoại tôi, Neo Ah Soon, một phụ nữ Hakka vai rộng quê ở Pontianak trong vùng đảo Borneo thuộc Hà Lan. Bà nói được tiếng Hakka và tiếng Malay của người Indonesia. Khi bà lấy ông ngoại tôi, bà đã có một đời chồng với hai con riêng, người chồng trước đã chết ít lâu sau khi có đứa con thứ hai. Bà có với ông Chua bảy người con trước khi chết vào năm 1935. Còn ông ngoại tôi chết năm 1944, thời người Nhật chiếm Singapore.
Mẹ tôi là con lớn nhất của hai ông bà, và khi mẹ tôi lấy cha tôi năm 1922 lúc bà 15 tuổi thì tình hình của gia đình cả hai bên còn rất sung túc. Bà còn mang theo được, như một phần của hồi môn, một cô hầu nhỏ có nhiệm vụ giúp bà tắm, lau chân, tháo hoặc đi giày cho bà. Tất cả những biểu hiện giàu sang ấy đều đã biến mất khi tôi nhận thức được môi trường xung quanh mình vào năm 4 hoặc 5 tuổi. Nhưng ký ức về thời kỳ tốt đẹp ấy vẫn còn trong những ảnh chụp xưa của tôi – một cậu bé mặc đủ thứ áo quần nhập từ Anh, hay nằm trong một chiếc xe nôi sang trọng. Nhà của ông ngoại Chua ở Telok Kurau là một căn nhà trệt rất rộng bằng gỗ và gạch. Ông và tất cả con cái của bà vợ thứ ba sống trong căn nhà đó, mẹ tôi, con gái lớn, cùng với cha tôi và năm anh em tôi chiếm một phòng ngủ lớn. Tất cả hợp thành một đại gia đình trong đó mọi người sống hòa hợp ngoại trừ những xung đột nho nhỏ, chủ yếu vì những đứa cháu nghịch ngợm và ưa gấu ó. Cứ thế tôi lớn lên cùng với ba em trai và một em gái cùng sáu anh em họ trong cùng một ngôi nhà. Nhưng vì tất cả chúng nó đều nhỏ tuổi hơn tôi, nên tôi
thường chơi với những đứa trẻ con nhà ngư dân người Hoa hay người Malay sống trong khu gần đó, một cụm chừng hai ba chục ngôi nhà lá hay gỗ có mái tôn trong một ngõ đối diện nhà ông ngoại tôi. Những ngư dân này kiếm ăn dọc bãi biển Siglap cách đó chừng 200 thước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét