http://www.budsas.org/uni/u-kinh-phapcu-ev/dhp-nc01.htm
Dhammapada
Sutta
(Khuddaka Nikaya - Sutta Pitaka)
Nghiên cứu so
sánh văn bản kinh Pháp Cú
chữ Hán và chữ Pàli
Thích Nữ
Nguyệt Chiếu
A .
DẪN NHẬP
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa,
được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng
tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát. Từ lâu
kinh Pháp Cú đã trở nên quen thuộc với Tăng Ni và Phật Tử
Việt Nam ngay những câu mang tính ca dao, dân ca làm cho mọi người
dễ đọc, dễ nghe, dễ học, dễ hiểu v.v...dần dần có sự ăn
sâu, bám rễ vào lòng Dân Tộc, góp phần không nhỏ trong việc xây
dựng, nâng cao phẩm giá con người. Từ đó những đóa hoa đạo
đức-trí huệ của Phật Giáo vốn có sắc và hương thơm ngát
lại là người bạn cố tri luôn đem đến nguồn cảm hứng, an
ủi, nâng đỡ, hộ trì và cải thiện đời sống tâm linh trong
những bước thăng trầm của cuộc sống. Trong suốt 45 năm
thuyết giảng giáo pháp, Đức Phật đã dùng vô số phương pháp
để hóa độ chúng sanh. Những phương pháp ấy đều có chứa
những bài kệ ngắn gọn, hàm xúc, thú vị, tinh túy, hữu ích và
đúng theo chân lý. Đó chính là những câu Pháp Cú nằm tản mát
trong Kinh- Luật- Luận thuộc Nam Truyền và Bắc Truyền. Do vậy,
sau khi Đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn thì kinh Pháp Cú trở thành
áng văn bất hủ cho cả hai giới Tại Gia và Xuất Gia.
Chính sự lan truyền rộng rãi của
kinh Pháp Cú nên dần dần dễ dẫn tới việc sai khác về ngôn
từ và ý nghĩa của kinh so với nguyên bản. Vì thế, khi mới
xuất gia học đạo liền bắt gặp trong quyển "Sa Di Luật
Giải" của Hòa Thượng Hành Trụ, phần Qui Sơn Cảnh Sách,
trang 497 có đoạn viết:
"Đức Như Lai diệt độ chưa
bao lâu, có một ông Tỳ Kheo, lầm tụng bài kệ trong kinh Pháp
Cú: "Nếu người sống trăm tuổi, chẳng thấy con Hạc già
dưới nước, chẳng bằng sống một ngày mà đặng thấy rõ đó"
khi ấy ngài A Nan Tôn giả nghe rồi nguôi thản than rằng:
"Chánh Pháp Như Lai sao mà diệt mau lắm vậy!" Rồi nói
với Thầy Tỳ Kheo kia rằng: Thưa Huynh! Đức Phật, Ngài nói:
"Nếu người sống trăm tuổi chẳng thấy sanh diệt, chẳng
bằng sống một ngày mà thấy rõ đó". Ông Tỷ Kheo ấy
bấy giờ trở về thuật lại với Bổn sư, sư nói: "Ơi!
Ông A Nan già cả, nói hay lầm lộn không nên tin vậy. Ngươi
cứ về tụng như trước đi."
Ôi! Xét như xưa đời chánh pháp hãy
còn lầm lộn như thế đó. Huống đời bây giờ cách Phật đã
xa, không gần Thầy hay Bạn giỏi, làm sao nói ra cho nhằm Kinh
Luật ấy ư?"
Qua đoạn trích trên, người viết
nhận thấy nguyên nhân có sự nhầm lẫn giữa chữ "sanh
diệt" với "hạc già" là xuất phát từ sự truyền
khẩu của kinh, truyền từ người này qua người nọ nên dẫn đến
sự sai khác. Như theo bản PàLi câu 113 trong Phẩm Ngàn, tức là câu
14 của bản phụ lục ở phía sau cho biết: "Yo ca vassa-
satam jìve apassam udaya – vyayam" (Ai sống một trăm năm mà
không thấy sanh tử). Và theo bản Prakrit câu 317 cho thấy: "Ya
ji vasa – s ado jivì apas u udaka - vaya". (Ai sống một trăm
năm mà không thấy sanh tử). Do lẫn lộn chữ "Udaka-vaya"
dịch là "Sanh tử" đọc nhầm thành "Udaka-bakam"
dịch là "Hạc nước". Sự đọc nhầm này cũng do một
phần sau khi Đức Phật nhập diệt, phần đông các vị Tổ về
sau đều là gốc Bà La Môn nên họ cứ tin tưởng và chấp chặt
vào ngôn ngữ của mình, không để ý đến nghĩa của chữ dẫn
đến sự nhầm lẫn như thế.
Và Thầy Lê Mạnh Thát cũng có bàn
về vấn đề này trong quyển Tư Tưởng "Thử bàn về một
phương pháp phê bình văn học", bộ IV, số 2 (1971), tr
101-112; số 3 (1971), tr 127 – 134; số 6 (1971), tr 85- 106. Thư Viện
Đại Học Vạn Hạnh – Sài Gòn.
Từ sự nhầm lẫn trên, người viết
hằng suy nghĩ : Tất cả Tăng Ni sinh chúng ta đều mong sao tự
mỗi cá nhân trước hết phải nhìn nhận đây là vấn đề, là
mấu chốt cần phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ trước những
kinh sách về Phật giáo thật sự có tính cách lợi ích cho sự hành
đạo giải thoát hay không? Có như vậy, chúng ta mới trang bị
nền móng vững chắc cho sự hành đạo giải thoát ở chính ngay
con người mình. Từ sự nhận định tổng quát như vậy mà các
nước trên thế giới đều đã nghiên cứu so sánh Kinh Pháp Cú
như S. LéVi, L Apramàdavarga. Etude sur les recensions des-Dharmapada, JAS
(xx) 1912, 203-94; và người nghiên cứu The Gàndhàrì by John Brought
(London, Oxford University Press, 1962); còn ở Việt Nam nước ta thì
chưa thấy ai so sánh kinh Pháp Cú. Đây là lý do người viết
chọn đề tài: "Nghiên cứu so sánh văn bản kinh Pháp Cú
chữ Hán và chữ Pàli."
Kinh Pháp Cú có tầm quan trọng trong
kho tàng Pháp Bảo Phật Giáo, nên được dịch ra nhiều thứ
tiếng nhất. Hầu hết các ngôn ngữ quan trọng trên thế giới
đều có bản dịch kinh Pháp Cú và nhiều tác giả đã xem tập này
như một Thánh Thư của Đạo Phật. Riêng tiếng Việt, hiện nay
Kinh Pháp Cú có khá nhiều bản như sau:
- Kinh Pháp Cú do H.T Thích Trí Đức
dịch từ bản Hán văn của Pháp Sư Liễu Tham (từ bản Pàli
sang Hán). Bản này được xuất bản lần đầu tiên vào năm
1959 và đến nay được tái bản nhiều lần.
- Kinh Pháp Cú do Á Nam Trần Tuấn
Khải dịch từ bản Anh-Hán Đối Chiếu Hòa dịch 1963 của
soạn giả Thường Ban Đại Định.
- Kinh Pháp Cú do Phạm Kim Khánh
dịch từ Pàli-Anh của Đ.Đ Narada người Tích Lan, được xuất
bản năm 1971.
- Kinh Pháp Cú do H.T Thích Minh Châu
dịch từ bản Pàli, được trường Cao Cấp Phật học Việt
Nam ấn hành 1989, nay là Học Viện Phật Giáo Việt Nam.
- Thi Hóa Pháp Cú Kinh do Tịnh Minh
dịch từ bản tiếng Anh của Đ.Đ. Narada, 1990.
Hầu hết các văn bản trên đều có
nguồn gốc từ bản Tích Lan 26 phẩm 423 bài kệ do các dịch
giả dịch từ tiếng Hán, tiếng Pàli, tiếng Anh. Ngoài ra, kinh Pháp
Cú còn có nhiều dị bản như:
- Hán dịch Pháp Cú kinh. Bản này
do Ngài Pháp Cứu người Ấn ở thế kỷ thứ I trước Công
Nguyên tuyển tập, nhóm Ngài Duy Kỳ Nan đời Ngô Tam Quốc
dịch sang Hán, được thâu vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh. ĐTK 210 tờ 559 a1 – 575 b10.
- Phạn bản Ưu Đà Na phẩm, còn
gọi Ô-Đà-Nam Phẩm, theo câu Xá Luận Quang Ký quyển 1 nói cũng
do Ngài Pháp Cứu tuyển tập, có Phạn bản lưu hành ở Ấn Độ.
- Tạng dịch Phạn bản Ưu-Đà-Na
phẩm với tên là Che-du-brjod-pahi tshoms, nằm trong Đại Tạng
Kinh Tây Tạng.
Kinh Pháp Cú ngoài văn bản và dị
bản như đã kể trên, lại có kinh Pháp Cú Thí Dụ với những
dị bản như sau:
- Pháp Cú Kinh chú
(Dhammapada-tthakathà) của Ngài Phật Âm (Buddha-Ghosa), thế kỷ
thứ V viết, bằng văn Pàli.
- Hán dịch Pháp Cú Thí Dụ Kinh
(Thuộc ngữ hệ Pàli) cũng chính để giải thích ý nghĩa, nhân
duyên truyện tích của kệ Pháp Cú.
- Hán dịch Xuất Diệu Kinh do Ngài
Tăng Già Bạt Trừng và Trúc Phật Niệm dịch vào năm 398.
- Tạng dịch Ưu-Đà-Na Phẩm Chú
Giải (Che-du-brjod-pahi tshoms-Kyirnam-parthrelpa).
Các bài kệ Pháp Cú Thí Dụ này cũng
dịch ra tiếng Việt như:
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Dịch giả
Thích Minh Quang, nhà xuất bản TP. HCM-1994.
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Dịch giả
Thích Thiện Phát, nhà xuất bản TP. HCM-1997.
- Chú Giải Kinh Pháp Cú (Dhammapàdatthakathà).
Tác Giả: Bhadantàcàriya Buddhaghosa. Dịch Giả: Trưởng Lão Pháp
Minh, nhà xuất bản TP. HCM-1997
- Trích Truyện Pháp Cú, Dịch Giả
T.V.Viên Chiếu, nhà xuất bản TP. HCM-2000.
Vì vậy, khi đi vào nghiên cứu so sánh
kinh Pháp Cú, người viết thật vô cùng ngần ngại với số văn
bản và dị bản khá nhiều. Muốn có cái nhìn nhất quán về
lời Phật dạy, người viết quyết chọn hai văn bản có cơ
sở: 1) Kinh Pháp Cú - nguyên tạng Pàli do H.T. Thích Minh Châu
dịch; 2) Kinh Pháp Cú Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, ĐTK 210
tờ 559 a1-575 b10, để so sánh sự giống nhau và khác nhau như
thế nào. Tại sao có sự dị biệt này? Đây là vấn đề mà người
viết cần muốn tìm hiểu về giáo lý nguyên thủy để làm
ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho hành giả đi đến giải thoát,
giác ngộ như Đức Phật từng dạy:
Kẻ mất ngủ cho rằng đêm rất dài,
người lữ khách mệt mỏi cho rằng đường hãy còn xa thế nào?
Thì cũng như thế ấy, kẻ nào chưa tìm được chân lý, hằng
phải bị sanh tử luân hồi trong thời gian vô tận." -
Dhammapada- kệ số 60
Sự thật, với tinh thần đi tìm một
giá trị đích thật về kinh Pháp Cú mà tập tiểu luận này được
ra đời. Vả lại, cũng có duyên may được học dưới mái trường
Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh, lại
được gặp Giáo Sư Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát đồng ý hướng dẫn
đề tài này, nên có cơ hội để hoàn thành tốt tiểu luận.
Với sự rộng lớn của Đề Tài, người viết xin chỉ tập
trung một số bài tụng phổ biến nhất trong các phẩm của kinh
Pháp Cú.
Mặc dù, nổ lực hết sức mình và
cố gắng rất nhiều trong khi viết nhưng không sao tránh khỏi
nhiều điều thiếu sót trong việc tìm hiểu và trình bày lời
Phật dạy. Kính mong Giáo Sư hướng dẫn cùng Chư Tôn Đức, các
bạn đồng học, chư vị thiện tri thức từ bi hoan hỷ chỉ giáo
để kiến thức Phật Học được tăng bổ.
Phước Viên Tự,
ngày 17/12/2000.
Kính bút
Ni sinh Thích Nữ Nguyệt Chiếu (Nguyên Anh)
-ooOoo-
B. SO SÁNH
VĂN BẢN KINH PHÁP CÚ CHỮ HÁN VÀ CHỮ PÀLI
1. VẤN ĐỀ VĂN BẢN
CHỮ PÀLI:
Tất cả Kinh điển chữ Pàli phân thành
5 Nikàya: 1. Dìgha-Nikàya (Kinh Trường Bộ); 2. Majjhimanikàya (Kinh
Trung Bộ); 3. Samyuttnikàya (Kinh Tương Ưng); 4. Anguttaranikàya (Kinh
Bộ Tăng Chi); và 5. Khuddakanikàya (Kinh Tiểu Bộ) thì Dhamma-pada
(Kinh Pháp Cú) là một Kinh thuộc kinh thứ 5-Tiểu Bộ Kinh
(Khuddakanikàya) trong kinh tạng Pàli.
Vậy "Dhammapada" nghĩa là gì?
Dhamma dịch là Pháp, Pada dịch là Cú (câu). Dhammapada tức là
những câu ghi chép lại lời dạy Đức Phật, nên thường được
dịch là Pháp Cú.
Chữ "Dhamma" là Pháp, có
nhiều nghĩa như chân lý, giác ngộ, giải thoát hàm chứa: là giáo
pháp, chánh pháp, chân lý được Đức Phật khai thị; là Phật
ngôn, pháp ngữ hay những lời giáo huấn của Đức Phật về chơn,
thiện, mỹ; là kỷ luật, phép tắc, tín ngưỡng hình thức sinh
hoạt của Phật Giáo.
Chữ "Pada" là Cú (câu) nghĩa là
đường lối, lối đi, nền tảng căn bản. Pada cũng có nghĩa là
bàn chân, bước chân.
Cuối cùng, "Dhammapada" có thể
có nghĩa là những bàn chân hay bước chân đưa đến chân lý giác
ngộ, giải thoát; đưa đến chân, thiện, mỹ v.v... Được hiểu
như là "con đường chân lý, con đường đạo hạnh."
Kinh Dhammapada theo truyền thống được
xem là bộ kinh được kiết tập vào kỳ kiết tập thứ nhất,
ngay ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Có thể nói đây
là một cuốn kinh chứa đựng một cách gọn ghẽ, đầy đủ giáo
lý nguyên thủy của Đức Phật. Hay nói một cách khác là một
cuốn kinh chọn lọc những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni khi còn tại thế. Ngài đã truyền dạy trong khoảng ba trăm trường
hợp giáo hóa khác nhau trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sanh, Ngài
đã giảng nhiều pháp ngữ chứa đựng nghĩa lý thâm thúy để
cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh mà đưa họ đến Niết Bàn an
lạc. Những giáo pháp ấy được trình bày dưới hình thức các
bài kệ đơn giản và súc tích gồm phần lớn là bốn câu,
thỉnh thoảng lên đến sáu câu và mỗi câu gồm có tám âm đồng
đều, cụ thể qua 423 gàthà (bài kệ) chia làm 26 vagga (phẩm) như
sau:
01 |
Yamaka Vagga |
Phẩm Song
Yếu |
20 bài kệ |
02 |
Appamàda
Vagga |
Phẩm Không
Phóng Dật |
12 bài kệ |
03 |
Citta Vagga |
Phẩm Tâm |
11 bài kệ |
04 |
Puppha Vagga |
Phẩm Hoa |
16 bài kệ |
05 |
Bàla Vagga |
Phẩm Ngu |
16 bài kệ |
06 |
Pandita Vagga |
Phẩm Hiền
Trí |
14 bài kệ |
07 |
Arahanta Vagga |
Phẩm A La Hán |
10 bài kệ |
08 |
Sahassa Vagga |
Phẩm Ngàn |
16 bài kệ |
09 |
Pàpa Vagga |
Phẩm Ác |
13 bài kệ |
10 |
Danda Vagga |
Phẩm Hình
Phạt |
17 bài kệ |
11 |
Jarà Vagga |
Phẩm Già |
11 bài kệ |
12 |
Atta Vagga |
Phẩm Tự Ngã |
10 bài kệ |
13 |
Loka Vagga |
Phẩm Thế
Gian |
12 bài kệ |
14 |
Budda Vagga |
Phẩm Phật
Đà |
18 bài kệ |
15 |
Sukha Vagga |
Phẩm An
Lạc |
12 bài kệ |
16 |
Piya Vagga |
Phẩm Hỷ Ái |
12 bài kệ |
17 |
Kodha Vagga |
Phẩm Phẫn
Nộ |
14 bài kệ |
18 |
Mola Vagga |
Phẩm Cấu
Uế |
21 bài kệ |
19 |
Dhammattha
Vagga |
Phẩm Pháp
Trụ |
17 bài kệ |
20 |
Magga Vagga |
Phẩm Đạo |
17 baì kệ |
21 |
Pakinnaka
Vagga |
Phẩm Tạp
Lục |
16 bài kệ |
22 |
Niraya Vagga |
Phẩm Địa
Ngục |
14 bài kệ |
23 |
Nàga Vagga |
Phẩm Voi |
14 bài kệ |
24 |
Tanhà Vagga |
Phẩm Tham Ái |
26 bài kệ |
25 |
Bhikkhu Vagga |
Phẩm Tỷ
Kheo |
23 bài kệ |
26 |
Bràhmana
Vagga |
Phẩm Bà La
Môn |
41 bài kệ |
Mỗi phẩm đặt trọng tâm vào một đề
tài chính, như "Phẩm Tâm" tập hợp các bài kệ về tâm,
nghĩa là tinh thần không hình nhưng tạo tác không mất; hay
"Phẩm A La Hán" tập hợp các bài kệ nói về con người
nói lời chân chánh thì thoát được dục, tâm không còn đắm trước.v.v...
Tất cả 26 Vagga (phẩm) trong Kinh Dhammapada-Pháp Cú đều thích
hợp với tâm tính trình độ và căn cơ khác nhau của người
nghe.
2. VẤN ĐỀ VĂN BẢN CHỮ HÁN:
Căn cứ vào bài tựa của Kinh Pháp Cú,
ĐTK 210 tờ 566 b14 – c 26, quá trình hình thành văn bản chữ Hán
được trình bày như sau:
"Kệ Đàm Bát là yếu nghĩa
trong kinh. Đàm đó là Pháp, Bát đó là Cú, mà Kinh Pháp Cú có
vài bản để phân biệt. Có bộ gồm 900 bài kệ, hoặc có bộ
700 bài kệ và 500 bài kệ. Kệ là lời đúc kết lại cũng
giống như thi tụng vậy. Đó chính là Đức Phật thấy sự
việc nêu lên chẳng phải Ngài nói trong cùng một lúc mà tất
cả đều có nhân duyên được phân bố chặt chẽ trong các
kinh. Đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí, tánh của Ngài là
một bậc đại nhân cho nên Ngài thương xót chúng sanh mà xuất
hiện nơi đời, mở bày đạo nghĩa để cứu độ con người.
Trong 12 bộ kinh, tổng quát yếu nghĩa của từng thể loại mà
chia ra làm nhiều bộ. Sau khi Đức Phật nhập diệt, Ngài A Nan
trùng tuyên lại 4 bộ A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm,
Tăng Nhất A Hàm). Kinh không có dài ngắn, mở đầu ngài A Nan
đều tụng: Nghe như vầy, và nơi chốn Đức Phật thuyết pháp,
là nơi diễn đạt những lời đầy đủ tự thuyết của Ngài.
Sau đó, năm bộ Sa Môn mỗi mỗi sao chép ra thành kệ 4 câu
hoặc 6 câu trong các kinh rồi so sánh, phán định ý nghĩa vào các
điều chương mà phân biệt thứ loại, từng phẩm. Đối với
12 bộ kinh không đâu không tham cứu rút ra và không có một tên
gọi nhất định cho nên gọi là Pháp Cú. Các Kinh là pháp ngôn,
pháp cú do từ pháp ngôn mà có ra vậy. Gần đây người họ Cát
có lưu truyền 700 bài kệ, nghĩa của kệ rất sâu xa, người
dịch ra rất nhiều. Do nghĩa lý ẩn sâu trong kinh mà khiến cho
người dịch lẫn lộn. Chỉ có Đức Phật là khó gặp, giáo
pháp cũng khó mà nghe được. Lại nữa, Chư Phật xuất thế
ở Thiên Trúc nên ngôn ngữ Thiên Trúc với Hán ngữ khác âm. Sách
của Thiên Trúc gọi là Thiên Thư, lời âm nói gọi là Thiên
Ngữ. Do ngôn ngữ và sự vật bất đồng nên truyền đạt sự
chân thật chẳng phải là chuyện dễ. Ngài Lam Điều, An Hầu
Thế Cao, Đô Quý Phật Điều dịch từ tiếng Phạn ra tiếng
Trung Hoa, sự thật đạt được thể của ngôn ngữ nhưng việc
ấy khó có người kế thừa. Người sau lưu truyền không thể
sâu sắc nhưng vẫn còn tôn trọng chỗ quý báu những bản
kinh, và tạm cho phần này đã đạt được chỉ thú của kinh.
Người đầu tiên là Duy Kỳ Nan
sinh ra ở Thiên Trúc vào năm thứ ba đời Hoàng Vũ đến Vũ Xương,
tôi mới theo ngài Duy Kỳ Nan mà nhận được bộ sách gồm 500
bài kệ, mời người đồng đạo Trúc Tướng Diễm dịch. Tướng
Diễm, tuy giỏi tiếng Thiên Trúc nhưng mà chưa am hiểu đầy đủ
Hán ngữ cho nên lời truyền đạt của Ngài hoặc còn Phạn
ngữ, hoặc lấy nghĩa mà dịch thành âm. Vì thế văn nghĩa
chất phác, lời của nói không đẹp, không bóng bẩy. Đầu tiên,
Duy Kỳ Nan nói rằng: Lời của Phật nương theo nghĩa mà không
dùng sự trau chuốt ngôn từ, chọn lấy pháp mà không lấy
chỗ nghiêm sức. Phàm người truyền dịch kinh được dễ
hiểu, chớ nên làm mất đi nghĩa lý của Kinh. Được như vậy
là điều hay nhất, cần thiết nhất. Những người ngồi ở đạo
tràng phiên dịch đều cho rằng: Lão Tử nói ngôn từ trau
chuốt thì không đáng tin, lời đáng tin thì không cần hoa mỹ.
Khổng Tử cũng nói rằng: Thư viết ra không hết lời, lời nói
ra thì không thâu tóm được hết ý. Đó là những lời nói
của bậc Thánh Nhân. Ý của bậc Thánh Nhân thâm thúy vô cùng,
nay thì người truyền đạt ý nghĩa của tiếng Phạn cần
phải thấu đạt được ý Kinh. Vì thế, từ những bài kệ
được người dịch ra cần phải chính lý yếu chỉ, chớ không
cần thêm trau chuốt văn chương. Nếu có dịch những chỗ không
hiểu thì thiếu sót không thể truyền đầy đủ, cho nên phần
nhiều có sự thiếu sót, phần lớn do sự có ra ngoài những trường
hợp mất mát ý nghĩa. Nhưng bài kệ Pháp Cú này, tuy lời mộc
mạc, chất phác mà ý chỉ sâu sắc.
Văn sơ sài, ước lược mà nghĩa
thì rộng lớn nên sự việc được dẫn dắt trong các kinh. Chương
phẩm có đầy đủ, câu cú có ý nghĩa. Những người mới tu
học ở tại Thiên Trúc không học Kinh Pháp Cú cho là vượt quá
thứ bậc nhưng kinh này mới chính là quy tắc lớn cho người
mới học và kho tàng sâu kín của người thâm nhập. Khó có
thể khai mở cho những người sơ cơ phân biệt những chỗ
lầm lẫn, dụ dẫn chúng sanh đi đến chỗ tự lập. Công sức
tu học ít, mà chỗ hiểu biết thì rộng. Kinh này, thật đáng
cho là cốt yếu và vi diệu thay! Khi xưa lúc truyền đạt kinh này.
Tôi có chỗ không hiểu, gặp lúc ông Tướng Diễm đến cho nên
theo đó mới thưa hỏi và thọ nhận lấy những bài kệ này
rồi được thêm 13 phẩm nữa, đồng thời so sánh với những
bản cổ rồi tăng bổ hiệu đính lại, sắp xếp phẩm mục
gom lại một bộ thành 39 phẩm gồm có 752 bài kệ, ngỏ hầu
để cho có sự bổ ích và rộng cho sự học hỏi."
Qua bài tựa giúp chúng ta hiểu được
phần nào về nguồn gốc và nội dung của kinh Pháp Cú. Kinh Pháp
Cú còn có tên gọi Pháp Cú Tập Kinh, Pháp Cú Tập, Pháp Cú
Lục, Đàm Bát Kinh, Đàm Bát Kệ. Đó chính là Đức Phật thấy
sự việc mà nêu lên. Kinh không có dài ngắn, mở đầu được
ngài A Nan đều tụng: Tôi nghe như vậy và nơi chốn Đức Phật
thuyết pháp.v.v... Nghĩa là có đầy đủ lục chủng thành tựu.
Sau đó, năm bộ Sa Môn sao chép ra thành kệ bốn câu, sáu câu
trong các kinh mà phân biệt thứ loại, từng phẩm. Gần đây ngưới
họ Cát có lưu truyền 700 bài kệ, nghĩa của kệ rất sâu, người
dịch ra rất nhiều. Về sau ngài Lam Điều, An Hầu Thế Cao, Đô
Quý Phật Điều dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Trung Hoa. Người
đầu tiên là Duy Kỳ Nan sinh ra ở Thiên Trúc nói rằng: Lời
của Phật nương theo nghĩa mà không dùng sự trau chuốt ngôn
từ, chọn lấy pháp mà không lấy chỗ nghiêm sức. Những người
ngồi ở đạo tràng phiên dịch đều cho rằng: Lão Tử nói ngôn
từ trau chuốt thì không đáng tin, lời đáng tin thì không cần
hoa mỹ. Khổng Tử cũng nói rằng: Thư viết ra không hết lời,
lời nói ra thì không thâu tóm được hết ý. Đó là những lời
nói của bậc Thánh Nhân. Ý của bậc Thánh Nhân thâm thúy vô cùng
nay thì người truyền đạt ý nghĩa của tiếng phạn cần phải
thấu đạt được ý kinh. Vì thế, những bài kệ Pháp Cú này,
tuy lời mộc mạc, chất phác mà ý chỉ sâu sắc. Văn sơ sài, ước
lược mà nghĩa thì rộng lớn nên sự việc được dẫn dắt
trong các kinh. Những người mới tu học ở tại Thiên Trúc không
học kinh Pháp Cú cho là vượt quá thứ bậc, nhưng kinh này mới
chính là quy tắc lớn của người thâm nhập. Kinh gồm 2 quyển,
39 phẩm, 752 bài tụng do ngài Pháp Cứu, người Ấn Độ soạn,
ngài Duy Kỳ Nan nước Ngô dịch vào thời Tam Quốc (có thuyết
cho rằng do ngài Chi Khiêm và Trúc Tướng Diễm dịch vào năm 224)
được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, ĐTK 210 tờ
559a1 – 575 b10. Nội dung gom góp những bài kệ do Đức Phật nói
trong các kinh mà biên tập thành, được thể hiện ở mỗi bài
kệ có bốn câu, sáu câu, có lúc tám câu; mỗi câu có bốn chữ
hay năm chữ. Kinh Pháp Cú trình bày cụ thể qua hai quyển với 39
phẩm 752 bài kệ như sau:
Quyển Thượng
10 |
Phẩm Phóng
Dật |
20 bài kệ |
11 |
Phẩm Tâm Ý |
12 bài kệ |
12 |
Phẩm Hoa Hương |
17 bài kệ |
13 |
Phẩm Ngu Ám |
21 bài kệ |
14 |
Phẩm Minh
Triết |
12 bài kệ |
15 |
Phẩm La Hán |
10 bài kệ |
16 |
Phẩm Thuật
Thiên |
16 bài kệ |
17 |
Phẩm Ác Hành |
22 bài kệ |
18 |
Phẩm Đao Trượng |
14 bài kệ |
19 |
Phẩm Lão
Mạo |
14 bài kệ |
20 |
Phẩm Ái Thân |
13 bài kệ |
21 |
Phẩm Thế
Tục |
14 bài kệ |
Quyển Hạ:
22 |
Phẩm Thuật
Phật |
21 bài kệ |
23 |
Phẩm An Ninh |
14 bài kệ |
24 |
Phẩm Hảo
Hỷ |
12 bài kệ |
25 |
Phẩm Phẫn
Nộ |
26 bài kệ |
26 |
Phẩm Trần
Cấu |
19 bài kệ |
27 |
Phẩm Phụng
Trì |
17 bài kệ |
28 |
Phẩm Đạo Hành |
28 bài kệ |
29 |
Phẩm Quãng
Diễn |
14 bài kệ |
30 |
Phẩm Địa
Ngục |
16 bài kệ |
31 |
Phẩm Tượng
Dụ |
18 bài kệ |
32 |
Phẩm Ái Dục |
32 bài kệ |
33 |
Phẩm Lợi Dưỡng |
20 bài kệ |
34 |
Phẩm Sa Môn |
32 bài kệ |
35 |
Phẩm Phạm Chí |
40 bài kệ |
36 |
Phẩm Nê Hoàn |
35 bài kệ |
37 |
Phẩm Sanh Tử |
18 bài kệ |
38 |
Phẩm Đạo
Lợi |
19 bài kệ |
39 |
Phẩm Kiết Tường |
19 bài kệ |
3. ĐỐI CHIẾU GIỮA HAI VĂN BẢN
CHỮ HÁN VÀ CHỮ PÀLI:
Theo S. Lévi trong "L.Apramàdavarga. Étude
sur les recensions des Dharmapada, JAS (x.x) 1912, 203- 94" thì cho
rằng văn bản tiếng Pàli và tiếng Hán hoàn toàn khác nhau. Nhưng
theo John Brough trong The Gàndhàri Dharmapada, Oxford University Press,
lại nhận định rằng giữa hai văn bản tiếng Pàli và tiếng Hán
có những điều cơ bản giống nhau, bên cạnh đó có những cái
khác nhau theo hai quan điểm: 1) Ở văn bản tiếng Hán có thể
đưa thêm "thơ" hay "những kinh khác" vào kinh Pháp
Cú; 2) Ở quan điểm này thì ngược lại, nói do chính bản Pàli
mất. Còn quan điểm bản thân người viết khi nghiên cứu so sánh
thì cảm nhận giữa hai văn bản có một số phẩm lại chứa điều
cốt yếu cơ bản về nội dung của từng phẩm là hoàn toàn
giống nhau. Tuy nhiên ở văn bản Chữ Hán có 39 phẩm 752 bài kệ
thì số phẩm và số bài kệ lại nhiều hơn so với bản Pàli
chỉ có 26 phẩm 432 bài kệ. Điều này, có thể cho rằng văn
bản Pàli bị thiếu một số phẩm. Bởi ở bản Hán, từng
phẩm có ghi chú tương đương tiếng Pàli, ta có thể lập bảng
đối chiếu như sau:
Bảng đối chiếu giữa
văn bản chữ Hán và chữ Pàli:
SỐ THỨ TỰ
|
TÊN PHẨM
|
SỐ LƯỢNG BÀI
KỆ
|
HÁN
|
PÀLI
|
HÁN
|
PÀLI
|
HÁN
|
PÀLI
|
1
|
0
|
Phẩm Vô Thường
|
Không có
|
21
|
0
|
2
|
0
|
Phẩm Giáo Học
|
Không có
|
29
|
0
|
3
|
0
|
Phẩm Đa Văn
|
Không có
|
19
|
0
|
4
|
0
|
Phẩm Đốc Tín
|
Không có
|
18
|
0
|
5
|
0
|
Phẩm Giới Thận
|
Không có
|
16
|
0
|
6
|
0
|
Phẩm Duy Niệm
|
Không có
|
12
|
0
|
7
|
0
|
Phẩm Từ Nhân
|
Không có
|
18
|
0
|
8
|
0
|
Phẩm Ngôn Ngữ
|
Không có
|
12
|
0
|
9
|
1
|
Phẩm Song Yếu
|
Phẩm Song Yếu
|
22
|
20
|
10
|
2
|
Phẩm Phóng Dật
|
Phẩm Không phóng
Dật
|
20
|
12
|
11
|
3
|
Phẩm Tâm Ý
|
Phẩm Tâm
|
12
|
11
|
12
|
4
|
Phẩm Hoa Hương
|
Phẩm Hoa
|
17
|
16
|
13
|
5
|
Phẩm Ngu Ám
|
Phẩm Ngu
|
21
|
16
|
14
|
6
|
Phẩm Minh Triết
|
Phẩm Hiền Trí
|
12
|
14
|
15
|
7
|
Phẩm La Hán
|
Phẩm A La Hán
|
10
|
10
|
16
|
8
|
Phẩm Thuật Thiên
|
Phẩm Ngàn
|
16
|
16
|
17
|
9
|
Phẩm Ác Hành
|
Phẩm Ác
|
22
|
13
|
18
|
10
|
Phẩm Đao Trượng
|
Phẩm Hình Phạt
|
14
|
17
|
19
|
11
|
Phẩm Lão Mạo
|
Phẩm Già
|
14
|
11
|
20
|
12
|
Phẩm Ái Thân
|
Phẩm Tự Ngã
|
13
|
10
|
21
|
13
|
Phẩm Thế Tục
|
Phẩm Thế Gian
|
14
|
12
|
22
|
14
|
Phẩm Thuật Phật
|
Phẩm Phật Đà
|
21
|
18
|
23
|
15
|
Phẩm An Ninh
|
Phẩm An Lạc
|
14
|
12
|
24
|
16
|
Phẩm Hảo Hỷ
|
Phẩm Hỷ Ái
|
12
|
12
|
25
|
17
|
Phẩm Phẫn Nộ
|
Phẩm Phẫn Nộ
|
26
|
14
|
26
|
18
|
Phẩm Trần Cầu
|
Phẩm Cấu Uế
|
19
|
21
|
27
|
19
|
Phẩm Phụng Trì
|
Phẩm Pháp Trụ
|
17
|
17
|
28
|
20
|
Phẩm Đạo Hạnh
|
Phẩm Đạo
|
28
|
17
|
29
|
21
|
Phẩm Quãng Diễn
|
Phẩm Tạp Lục
|
14
|
16
|
30
|
22
|
Phẩm Địa Ngục
|
Phẩm Địa Ngục
|
16
|
14
|
31
|
23
|
Phẩm Tượng Dụ
|
Phẩm Voi
|
18
|
14
|
32
|
24
|
Phẩm Ái Dục
|
Phẩm Tham Ái
|
32
|
26
|
33
|
0
|
Phẩm Lợi Dưỡng
|
Không Có
|
20
|
0
|
34
|
25
|
Phẩm Sa Môn
|
Phẩm Tỳ Kheo
|
32
|
23
|
35
|
26
|
Phẩm Phạm Chí
|
Phẩm Bà La Môn
|
40
|
41
|
36
|
0
|
Phẩm Nê Hoàn
|
Không Có
|
35
|
0
|
37
|
0
|
Phẩm Sinh Tử
|
Không Có
|
18
|
0
|
38
|
0
|
Phẩm Đạo Lợi
|
Không Có
|
19
|
0
|
39
|
0
|
Phẩm Kiết Tường
|
Không Có
|
19
|
0
|
Qua bảng so sánh, giúp chúng ta biết
được ở văn bản Pàli thiếu các phẩm Sau: Phẩm Vô Thường
(thứ 1); Phẩm Giáo Học (thứ 2); Phẩm Đa Văn (thứ 3), Phẩm Đốc
Tín (thứ 4); Phẩm Giới Thận (thứ 5); Phẩm Duy Niệm (thứ 6);
Phẩm Từ Nhân (thứ 7); Phẩm Ngôn Ngữ (thứ 8); Phẩm Lợi Dưỡng
(thứ 33); Phẩm Nê Hoàn (thứ 36); Phẩm Sinh Tử (thứ 37); Phẩm
Đạo Lợi (thứ 38); Phẩm Kiết Tường (thứ 39). Tổng cộng
bản Pàli thiếu 13 phẩm-256 bài kệ; và nội dung đề tài của
13 phẩm này nói về Vô Thường; Giáo Học, Sinh Tư.v.v... đều đặt
trọng tâm vào giáo lý của Đức Phật dạy. Theo như chúng ta
thiết nghĩ, những giáo lý của Đức Phật dạy khi còn tại
thế thì Ngài không thể nào lại không quan tâm khi bàn về vấn
đề Vô Thường, Sanh Tử, Niết Bàn v.v...
Mặt khác, theo như bài tựa của Pháp
Sư Ấn Thuận viết cho bản kinh Pháp Cú Hán Văn của sư Liễu
Tham có đoạn ghi: "Theo truyền thuyết của Hữu Bộ thì
sau khi Đức Phật diệt độ, Đại Đức Pháp Cứu (Dharmahata) tùy
nên chỗ lần được nghe, thuận theo ý nghĩa soạn tập đặt thành
tên phẩm. Như gom những câu tụng dạy lý vô thường, lập làm
phẩm vô thường, cho đến gom những bài tụng dạy về Phạm Chí
làm phẩm Phạm Chí". (Xem Bà Sa Luận 1) đều là chỉ cho Pháp
Cú, nhưng theo Ngài Chi Khiêm (khoảng 230 T.L) trong bài tựa Pháp Cú
của Ngài có nói: "Năm bộ chúng Sa Môn đều lượm lặt
những bài kệ bốn câu, sáu câu trong các Kinh, sắp đặt thứ
lớp theo nghĩa lý rồi làm thành từng phẩm riêng. Cho nên gọi
Pháp Cú. Pháp Cứu là người ở thế kỷ I trước Công Nguyên,
Ngài chỉ làm công việc cải biên. Bởi vì từ các tập Pháp Cú
của ngũ bộ chúng Sa Môn, cho đến khi các bộ phải phân chia, thì
mỗi bộ điều có biên thêm, cải đổi. Tuy nhiên chúng đều là
trích từ trong kinh Phật ra, chứ không phải do sự tái biên,
cải biên mà giảm mất giá trị".
Cũng có người viết: "Lúc
Phật còn tại thế, Ngài Buddhaghosa không cho ghi chép Kinh, vì sợ
tam sao thất bổn. Mấy Tổ về sau giỏi chữ nghĩa văn chương
nhất là vị gốc Bà La Môn sẽ có thể thêm bớt làm sai lệch
nguyên bổn, Ngài chỉ thuyết bằng tiếng Pàli, tiếng bình dân
xứ Magadha, không có chữ Nam Phạn, Bắc Phạn (sanskrit) là của
Đạo Bà La Môn, tuy hơi giống như tiếng Pàli, nhưng không phải
là một thứ tiếng như tiếng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc
của xứ ta" (Quyển Chú Giải Kinh Pháp Cú-tr 94, Q 1. Dịch
Giả Trưởng lão Pháp Minh). Lại nữa, theo Từ Điển Phật Học
Huệ Quang của Phật Quang Sơn cho biết: "Bản gốc Kinh Pháp
Cú chữ Hán có nhiều loại: Loại 1000 bài tụng; 900 bài tụng;
500 bài tụng… Năm 224, ngài Duy Kỳ Nan đem về 26 phẩm, 500 bài
tụng, sau lại thêm 13 phẩm, thành 39 phẩm - 752 bài tụng. Kinh này
hiện còn có bốn bản khác là: Kinh Pháp Cú (Pàli: Dhammapada);
Phẩm Ưu Đà Na (Phạn: Udàna- Varga, còn gọi: Ô đà nan phẩm),
Che-du-brjod tshoms (bản Tây Tạng), Kinh Pháp Tập Yếu Tụng, bốn
quyển do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống-Trung Quốc
(thuộc hệ tiếng Phạn, được xếp vào Đại Chánh Tạng Tập
4). Trong đó bản Pàli gồm có 26 phẩm, 423 bài tụng (1 bài tụng
có nhiều đoạn). Bản này rất giống với bản do ngài Duy Kỳ
Nan thỉnh về Trung Quốc". Quan điểm này dễ gây hiểu
lầm hai văn bản hoàn toàn giống hệt nhau. Theo bảng đối
chiếu trên thì giữa hai văn bản có sự chênh lệch về số
phẩm và số lượng bài kệ. Chi tiết này cũng cho thấy hai văn
bản có phần khác nhau. Vả lại, một số nước trên thế giới
trước đây có so sánh hai văn bản khác nhau nhưng Từ Điển
Phật Quang Sơn lại cho bản Pàli rất giống với bản chữ Hán
do ngài Duy Kỳ Nan thỉnh về Trung Quốc. Điểm này, chúng ta
phải điều soát lại.
Do vậy, khi bàn về hai văn bản chữ Hán
và chữ Pàli thì chúng ta nên hiểu rằng: Hết thảy Phật Pháp
đều cùng bắt nguồn từ thân giáo, ngữ giáo của Đức Thế Tôn
mà được lưu truyền mãi về sau cho nên đôi lúc họ chú trọng
lý lẽ của nghĩa câu, hoặc lúc thiên về bảo thủ, cục bộ
v.v...Từ đó, hình thành ra nhiều học phái. Thế nên phải từ
trong sự nghiên cứu so sánh mới hiểu rõ tính cộng thông và tính
sai biệt của nó. Được vậy mới có thể nhìn nhất quán về
lời Phật dạy; và có thể giải được Phật ý một cách hoàn
chỉnh, hiểu rõ được cách thích ứng với thế gian vô thường
lưu biến này. Còn như cứ chấp một bề cho là phải (bản chữ
Hán đủ, bản Pàli thiếu), hoặc tự xưng nguyên thủy (bản Pàli
đúng, còn bản chữ Hán bị pha tạp bởi đạo Bà La Môn, Đạo
Hồi. v.v...), hoặc tự xưng cứu cánh, mình phải người trái, thì
đó là một bóng mờ đáng sợ của tiền đồ Phật Giáo vậy.
Để hiểu rõ hơn, người viết xin đi sâu vào phần chi tiết.
III-a. Những Phẩm Khác Nhau
Về Văn Bản Chữ Hán Và Chữ Pàli:
Y Theo bài tựa ở bản chữ Hán của
ngài Pháp Cứu soạn, cho biết: "Khi xưa lúc truyền đạt
kinh này, ngài Duy Kỳ Nan có những chỗ không hiểu nhân lúc gặp
ngài Tướng Diễm rồi theo đó mới thưa hỏi và thọ nhận
những bài kệ lại được thêm 13 phẩm nữa, đồng thời so sánh
với bản cổ 26 phẩm 423 bài kệ rồi tăng bổ hiệu đính lại
thành 39 phẩm 752 bài kệ". Đó là 13 phẩm của bản Hán
mà phẩm Pàli không có. Mười ba phẩm ấy bao gồm: tám phẩm đầu,
bốn phẩm cuối và một phẩm Lợi Dưỡng ở gần cuối của văn
bản. Nội dung lần lượt của mười ba phẩm này như sau:
1/ PHẨM VÔ THƯỜNG:
Phẩm này có tổng cộng 21 bài kệ.
Trong đó, từ bài kệ số 1 đến số 17 là mỗi bài có 4 câu,
mỗi câu có 4 chữ; riêng bài kệ số 18 có 6 câu, mỗi câu có
4 chữ. Tất cả 21 bài kệ trên đều đặt trọng tâm vào đề
tài "Vô Thường". Nghĩa là người ngủ nhiều thì hôn
mê, mạng sống được sung sướng thì buông lung, tham đắm ngũ
dục, chỉ lo cung dưỡng thân mình. Vì họ chấp trước bản ngã,
không biết vô thường, không hiểu mọi vật trên đời đều
như vậy, không có cái gì trường tồn; mọi người đều
phải chết, không ai tránh được lẽ này, cho nên chỉ có con
đường đạo mới là chơn. Vì thế Đức Phật dạy chúng sanh
biết rằng: "Làm người từ xưa đến nay có bốn việc đáng
sợ nhất đó là : 1. Sanh phải già yếu; 2. Bệnh sẽ tiều
tụy; 3. Chết thần thức ra đi và 4. Xa lìa quyến thuộc".
Rồi Đức Phật ví mạng người như dòng nước chảy liền nói
bài kệ số 4:
Như hà sử lưu
Vãng nhi bất phản
Nhân mệnh như thị
Thệ giả bất hoàn
Dịch:
Như dòng nước chảy,
Trôi mãi chẵng về .
Mạng người cũng thế
Chết rồi không lại
2/ PHẨM GIÁO HỌC:
Phẩm này có tổng cộng 29 bài kệ.
Bài kệ từ số 1 đến số 4 là mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có
5 chữ. Bài kệ từ số 5 đến số 16, là mỗi bài có 4 câu,
mỗi câu có 4 chữ. Bài kệ từ số 17 đến số 22 là mỗi bài
có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Bài từ số 23 đến số 29, mỗi
bài có 4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Tất cả 29 bài kệ trên đều
đặt trọng tâm vào đề tài "Giáo Học". Ý nói dẫn
dắt người tu hành hãy tinh tấn tu tập đạo nghiệp, dứt
trừ các ấm cái, tâm trong sáng, tinh thần định tĩnh, mới có
thể tránh được các khổ. Và "Giáo Học" còn có nghĩa
là giải thích người ngu muội thấy được đạo rõ ràng. Ví
như người xuất gia học đạo mà không lo niệm kinh trì giới,
chỉ biết tham mê lợi dưỡng cung phụng cho huyễn thân, cứ ăn
no lại ngủ không nhớ đến lẽ vô thường. Người muốn cầu
đạo trước phải dứt trừ si mê rồi sau mới chế phục tâm.
Tâm là nguồn gốc của thiện, ác. Muốn dứt trừ tận gốc ái
dục phải chế phục tâm. Tâm an định, ý thông hiểu mới đắc
đạo được, như bài kệ số 4.
Chánh kiến học vụ tăng
Thị vi thế gian minh.
Sở sinh phúc thiên bội.
Chung bất đọa ác đạo
Dịch:
Chánh kiến luôn trau dồi,
Là ánh sáng giữ đời.
Phước đức tăng ngàn lần,
Chết không đọa đường ác.
3/ PHẨM ĐA VĂN:
Phẩm này có 19 bài kệ, mỗi bài có
4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Tất cả 19 bài kệ này đều đặt
trọng tâm vào đề tài "Đa Văn". Nghĩa là khuyên người
nghe nhiều học rộng thì được bậc thánh, được trí chánh
giác. Cũng như Đức Phật nhờ học rộng giáo pháp không biết
nhàm chán, phụng hành chánh đạo không có giải đãi, tinh tấn
trì giới tu huệ không có phóng dật, nên đạt đến Niết Bàn,
cụ thể qua bài kệ số 3.
Đa văn năng trừ ưu
Năng dĩ định vi hoan
Thiện thuyết cam lồ pháp
Tự trí đắc Nê Hoàn.
Dịch:
Nghe nhiều dứt âu lo
Luôn vui trong thiền định.
Khéo nói cam lồ pháp
Tự mình được Niết Bàn.
4/ PHẨM ĐỐC TÍN:
Phẩm này có hết thảy 18 bài kệ.
Trong đó, bài kệ từ số 1 đến số 3, mỗi bài có 4 câu,
mỗi câu có 5 chữ; từ bài kệ số 4 đến số 18, mỗi bài có
4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Tất cả 18 bài kệ này đặt trọng
tâm vào đề tài "Đốc Tín". Nghĩa là đôn đốc niềm
tin, kết quả để thành lập đạo, là nguyên nhân để trở
về tâm nguyện của mình. Vì người chưa biết đạo đức, không
tu giải thoát, cứ quen thói ương ngạnh, dối trá, tham lợi, buông
lung theo tình ý khó mong được giải thoát khổ đau. Nếu người
có lòng tin, tâm kiên cố, thọ trì ngũ giới làm Phật Tử
tại gia biết tu hành liền được trí huệ và hạnh lành, lần
lần người ấy vượt thóat sanh tử như bài kệ số 7.
Tín chi giữ giới.
Tuệ ý năng hành.
Kiện phu độ tuệ
Tùng thị thoát uyên.
Dịch:
Lòng tin và giới luật
Tuệ quán siêng tu hành,
Bậc trượng phu trí tuệ,
Qua được vực tử sinh.
5/ PHẨM GIỚI THẬN:
Phẩm này có 16 bài kệ, mỗi bài có
4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Tất cả 16 bài kệ này đều đặt
trọng tâm vào đề tài "Giới Thận". Ý nói giữ điều
khuyên răn, không phạm điều cấm, về sau khỏi ăn năn. Do
vậy, người hành đạo phải lấy giới làm căn bản, lấy
nhiếp tâm làm công hạnh, coi nhẹ thân thể, quý trọng chân lý,
xả thân cầu đạo. Ăn uống là để duy trì mạng sống, tu
tập thiền định. Phải hướng đến mục tiêu đắc đạo mà
tu học chỉ quán, dứt trừ vọng tưởng. Còn nếu chỉ lo cung
dưỡng thân thể, chìu theo đòi hỏi thì làm sao thoát được
khổ đau? Cho nên Đức Phật dạy bài kệ số 8.
Tỳ Kheo lập giới.
Thủ nhiếp chư căn
Thực tri tự tiết
Ngụ ý linh ưng.
Dịch:
Tỳ Kheo giữ giới.
Nhiếp giữ các căn
Ăn biết tiết độ,
Ngủ nghĩ có chừng
6/ PHẨM DUY NIỆM:
Phẩm này có tổng cộng 12 bài kệ.bài
kệ số 1 có 6 câu, mỗi câu có 5 chữ. Từ bài số 2 đến số
12, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Tất cả 12 bài kệ này
đều đặt trọng tâm vào đề tài "Duy Niệm". Nghĩa là
hãy cẩn thận đối với những nguyên nhân gây ra tội lỗi. Cũng
có nghĩa những điều nhỏ từ trước phải giữ, trong phải
tự mình suy nghĩ cho an ổn mới hiểu được đạo. Như
"Mạng người mong manh sáng còn tối mất. Vô thường
nghiệp báo không hẹn chợt đến. Chỉ cần quán sát thân tứ
đại do đâu mà có, tạm hợp thành rồi sẽ hoại diệt. Đất,
nước, gió, lửa sẽ trả về cho đất, nước, gió, lửa! Hãy
tư duy tỉnh giác, tâm vắng lặng không có vọng tưởng, chuyên
niệm Tam Bảo, bố thí, giới đức. Nếu có thể biết được
lẽ vô thường thì cũng như thấy Phật! Nghĩ đến việc ngày
mai chỉ là vọng tưởng vô ích." Do vậy, Đức Phật dạy
bài kệ số 11.
Kỷ tri tự giác ý
Thị vi pháp đệ tử
Thường đương trú dạ niệm
Phật dữ pháp cập chúng.
Dịch:
Đã biết mình giác ngộ
Mới là đệ tử Phật
Thường phải ngày đêm nhớ
Phật, Pháp, và chúng Tăng
7/ PHẨM TỪ NHÂN:
Phẩm này có hết thảy 18 bài kệ. Bài
kệ từ 1 đến 6, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Riêng
bài số 7 và số 10 thì mỗi bài có 6 câu, mỗi câu có 4 chữ.
Còn bài số 8, số 9, số 11 đến số 18, mỗi bài có 4 câu,
mỗi câu có 4 chữ. Tất cả 18 bài kệ này đều đặt trọng tâm
vào đề tài "Từ Nhân". Ý nói bậc đại nhân đức
bao trùm vô lượng. Điều này khuyên chúng ta được làm người
phải biết thương yêu các loài chúng sanh để nuôi sống cho mình.
Vì không có ai là không tham sống sợ chết, cho nên giết chúng
sanh nuôi sống bản thân mình tội lỗi rất nặng. Do vậy, được
làm thân người rất là khó , nên phải thực hành tâm từ bi
đối với mọi loài chúng sanh thì đời đời sẽ được an vui
như bài kệ số 1, Đức Phật dạy:
Vi nhân bất sát.
Thường năng nhiếp thân
Thị xứ bất tử
Sở thích vô hoạn
Dịch:
Làm nhân không giết
Thường hay nhiếp thân,
Chỗ đó bất tử.
Đi đâu không họa.
8/ PHẨM NGÔN NGỮ:
Phẩm này có 12 bài kệ. Bài kệ từ
số 1 đến số 4, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Từ bài
số 5 đến số 12, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Tất
cả 12 bài kệ này đều đặt trọng tâm vào đề tài "Ngôn
Ngữ". Nghĩa là: con người sở dĩ dùng lời nói phát ra để
đàm luận phải đúng với chân lý, cho nên phải chú ý thận
trọng, gìn giữ lời nói cho hòa nhã, nghiêm túc, chớ nói
những lời ác, chưỡi rủa mắng nhiếc nhau là tự hại cho mình.
Do vậy, Đức Phật liền dạy bài kệ số 3.
Phu sĩ chi sinh
Phủ tại khẩu trung
Sở dĩ trảm thân
Do kỳ ác ngôn
Dịch:
Phàm người ở đời
Gươm đao trong miệng
Sở dĩ chém mình,
Do lời nói ác.
9/ PHẨM LỢI DƯỠNG:
Phẩm này thuộc phẩm thứ 33 trong
bản Hán, có 20 bài kệ. Trong đó, bài kệ số 1, 2 và số 18 thì
mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ; các bài kệ còn lại,
mỗi bài đều 4 câu, mỗi câu 4 chữ. Tất cả 20 bài kệ đặt
trọng tâm vào đề tài "Lợi dưỡng". Nghĩa là khuyên
người phòng tham muốn. Vì tham muốn làm tổn đức của mình,
cho nên lúc nào trong tâm của họ đầy dãy xan tham, tật đố,
giận càn, mắng chưỡi, trù rủa, ôm lòng thâm độc v.v...không
thể nghĩ bàn làm cho uế sanh. Do vậy, là đệ tử của Phật nên
phải sáng suốt chớ có tham lam, tật đố v.v... dầu mình ở cõi
nào đi chăng nữa. Vì thế, Đức Phật dạy bài kệ số 4.
Tuy hữu thiên dục
Tuệ xả bất tham
Nhạo ly ân ái
Vi Phật đệ tử.
Dịch:
Tuy dục lạc cõi trời.
Sáng suốt bỏ không tham
Vui viễn ly ân ái
Là đệ tử Phật Đà.
10/ PHẨM NÊ HOÀN:
Phẩm này thuộc phẩm thứ 36 trong
bản Hán, có tổng cộng 35 bài kệ. Trong đó, bài kệ số 1 và
số 13 đến số 19, và kệ từ số 21 đến kệ số 35 là mỗi
bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Bài kệ từ số 2 đến số
7, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 4 chữ. Bài kệ từ số 8 đến
số 12, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 6 chữ. Riêng bài kệ
số 20 có 6 câu, mỗi câu có 5 chữ. Tất cả 35 bài kệ đều
đặt trọng tâm vào đề tài "Nê Hoàn". Nghĩa là trở
về đạo lớn, tịch diệt độ được sinh tử. Như bài kệ
số 24, Đức Phật dạy:
Lợi thắng bất túc thị
Tuy thắng du phục khổ
Đương tự cầu thắng pháp
Dĩ thắng vô sở sanh
Dịch:
Thắng người không đủ cậy,
Tuy thắng, vẫn lại khổ
Phải cầu pháp tự thắng,
Thắng rồi được vô sanh.
11/ PHẨM SINH TỬ:
Phẩm này thuộc phẩm thứ 37 trong
bản Hán, có tổng cộng 18 bài kệ, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu
có 5 chữ. Tất cả 18 bài kệ này đều đặt trọng tâm vào đề
tài "Sinh Tử". Ý nói các người có vong linh tùy theo
sự tu hành mà chuyển sanh. Như bài kệ số 3, Đức Phật dạy:
Thị thân vi tử vật,
Tinh thần vô hình pháp.
Giả linh tử phục sinh
Tội phước bất bại vong
Dịch:
Thân này là vật chết
Tinh thần vật vô hình
Thân chết, thức tái sinh.
Tội phước vẫn không mất.
12/ PHẨM ĐẠO LỢI:
Phẩm này thuộc phẩm thứ 38 trong
bản Hán, có tổng cộng 19 bài kệ. Trong đó, có bài kệ số
16, 17 là mỗi bài có 6 câu, mỗi câu có 5 chữ. Các bài ệ còn
lại là mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ. Tất cả 19 bài
kệ đều đặt trọng tâm vào đề tài "Đạo Lợi".
Nghĩa là bất cứ những ai hay Cha, Mẹ, Thầy Tổ khai mở con
đường hành thiện, diệt được tiền khiên oan trái để đến
con đường chánh. Như bài kệ số 1, Đức Phật dạy:
Nhân tri phụng kỳ thượng
Quân phụ sư đạo sĩ
Tín giới thí văn tuệ.
Chung kiết sở sinh an.
Dịch:
Người biết thờ bậc trên
Vua, Cha, Thầy, Đạo Sĩ.
Có tín, giới, thí, tuệ.
Chết tốt, tái sinh an.
13/ PHẨM KIẾT TƯỜNG:
Phẩm này thuộc phẩm thứ 39 trong
bản Hán, có 19 bài kệ, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ.
Tất cả 19 bài kệ này đều đặt trọng tâm vào đề tài
"Kiết Tường". Ý nói nếu mình tu hành tốt đẹp bỏ
được cái ác và tu được cái thiện thì mình sẽ được hưởng
cảnh tốt đẹp. Như bài kệ số 5, Đức Phật dạy:
Khứ ác tùng tựu thiện
Tị sửu tri tự tiết
Bất dâm ư nữ sắc
Thị vi tối kiết tường
Dịch:
Bỏ ác theo điều thiện,
Tránh rượu, biết tiết chế.
Không dâm với nữ sắc,
Là tối thượng kiết tường.
III-b. Những Phẩm Giống Nhau Về
Văn Bản Chữ Hán Và Chữ Pàli:
Ở hai văn bản Hán và Pàli đều có
26 phẩm tương đương với nhau. Tức là 26 phẩm còn lại của
bản Hán hoàn toàn giống với 26 phẩm của bản Pàli. Điều này
chứng minh rằng: Dù hai văn bản thuộc hai ngữ hệ Hán và Pàli
nhưng nội dung đề tài cơ bản của từng phẩm đều giống
nhau. Tuy nhiên, số lượng bài kệ của mỗi phẩm đôi lúc có
sự chênh lệch, có phẩm bằng nhau, có phẩm nhiều, phẩm ít. Như
chúng ta đều biết kinh Pháp Cú là tập hợp những bài kệ nằm
rãi rác trong các Kinh- Luật- Luận. Có lúc nghĩa của một bài
kệ mà Đức Phật lại tùy theo căn tánh của chúng sanh nên trình
bày trong nhiều trường hợp khác nhau. Do vậy, đôi khi nghĩa
của từng kệ có khác nhưng nội dung cơ bản vẫn không có gì
lạ. Để tìm hiểu điểm nhất quán trong kinh, người viết xin
lần lượt giới thiệu từng phẩm một.
PHẨM SONG YẾU:
Phẩm này của hai văn bản gồm
những bài kệ song đối nhau, bao hàm các nội dung đối lập
nhau, giữa tốt và xấu, giữa thiện và bất thiện, được
biểu lộ qua các hành động của chính mình đã tạo và gặt lãnh
kết quả từ những hành động tạo tác ấy. Với bản Hán có
22 bài kệ và ở bản Pàli có 20 bài kệ, ta có thể lập bảng
đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
5
|
5
|
9
|
9
|
13
|
13
|
19
|
17
|
2
|
2
|
6
|
6
|
10
|
10
|
14
|
14
|
20
|
18
|
3
|
3
|
7
|
7
|
11
|
11
|
17
|
15
|
21
|
19
|
4
|
4
|
8
|
8
|
12
|
12
|
18
|
16
|
22
|
20
|
Qua bảng so sánh trên, ta thấy bản Hán
có thêm hai câu 15, 16 là một cặp câu đối nghĩa với nhau.
Khuyên con người tu hành cố gắng tự sách tấn, chớ có buông
lung, phóng túng. Nhìn vào bảng, với 20 bài kệ có số câu tương
đương với nhau. Nghĩa là nội dung của từng bài kệ của hai
văn bản hoàn toàn giống nhau. Để hiểu rõ hơn người viết
xin trích dẫn và phân tích bài kệ thứ nhất của hai văn bản
để tìm điểm giống nhau:
Tâm vi pháp bổn,
Tâm tôn tâm sử.
Trung tâm niệm ác.
Tức ngôn tức hành.
Tội khổ tự truy,
Xa lịch vu triệt
Dịch:
Tâm là gốc muôn pháp
Tâm đứng đầu, sai sử
Trong tâm khởi niệm ác
Nói năng hay hành động
Tội khổ liền theo sau
Như xe lăn theo vết.
Manopubbangamà
dhammà |
Ý dẫn
đầu các pháp |
manosetthà
manomayà |
Ý làm
chủ, ý tạo |
manasà ce
padutthena |
Nếu
với ý vô nhiễm |
bhàsati và
karoti và, |
Nói lên
hay hành động |
tato nam
dukkhamanveti |
Khổ não
bước theo sau |
cakkam va
vahato padam |
Như xe,
chân vật kéo |
Qua bài kệ trên, ở bản Hán dịch
"Tâm là gốc muôn pháp". Còn bản Pàli dịch "Ý
dẫn đầu các pháp". Dịch "Tâm hay Ý" nghĩa vẫn là
một. Vì "Manopubbangamà" nghĩa là do tâm hướng dẫn nên
gọi là ý. Do vậy, "Tâm dẫn đầu" hay "Ý dẫn đầu"
đều hiểu như nhau. Bởi muôn sự muôn lẽ ở đời đều do tâm
người tạo ra, mà Phật học gọi là phái duy tâm. Đạo Phật
chia tâm ra nhiều thứ, nhưng rút lại có hai thứ tâm trọng
yếu nhất: 1. Vọng tâm, cái tâm nghĩ ngơi lan mang xằng bậy.
2. Chơn tâm; cái tâm nguyên lai vẫn sáng láng tinh thông, đầy
đủ mầu nhiệm không cần phải nghĩ mới biết. Cũng như tấm
gương trong suốt, vật gì qua nó là soi tỏ ngay, khác hẳn với
cái tâm phải suy nghĩ mới biết, phải học hỏi mới hay. Nói
đến tâm, chúng ta đều liên tưởng đến tâm sở. Vì có tâm
thì không thể không có tâm sở, cho nên tâm sở ở đây chính
là Pháp- Dhamma, bao trùm cả tốt và xấu, cả thiện và bất
thiện. Nhưng đối với bài kệ này, Pháp- Dhamma là những tâm
bất thiện, hết thảy mọi sự mọi vật ở thế gian đều là
giả cả, đều do cái vọng tâm tạo ra cả, nên gọi là pháp
trần. Tâm dẫn đầu mọi hành động và tác dụng như thành
phần chủ yếu trong khi tác hành cũng như trong khi quyết định
hoạt động. Đó chính tâm điều khiển tạo tác hành động
bằng thân, lời và ý thì khổ não liền (bước) theo sau, như
xe lăn theo vết (như xe, chân vật kéo), nghĩa đều giống nhau.
Vì chữ "triệt" được hiểu cái vết bánh xe đi qua, còn
"Pada" có thể dịch là chân, dấu, vết. Tuy giữa hai
bản thuộc hai hệ ngữ văn Hán và Pàli nhưng nội dung và ý
nghĩa hoàn toàn giống nhau.
2/ Bản Hán: PHẨM
PHÓNG DẬT – Bản Pàli: KHÔNG PHÓNG
DẬT
Phẩm này của hai văn bản gồm
những bài kệ với nội dung khuyến thiện, nhắc nhở làm
việc thiện, tạo thiện nghiệp, luôn luôn giữ tâm ghi nhớ
lấy mình. Cẩn thận đề phòng tà để khỏi mất đạo, và
thận trọng nên biết mình đang làm việc gì, khuyên vào đạo
hiền. Với bản Hán có 20 bài kệ hơn bản Pàli 8 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
3
|
5
|
5
|
7
|
7
|
13
|
11
|
2
|
2
|
4
|
4
|
6
|
6
|
8
|
8
|
14
|
12
|
Qua bảng so sánh trên, ở bản Hán hơn
bản Pàli tám bài kệ: kệ số 11,12, 15, 16,17, 18, 19, 20 và có
hai bài kệ khác nhau: kệ số 9 và số 10 của hai bản. Nhìn vào
bảng trên, giữa hai bản có 10 bài kệ, nghĩa tương đương
giống nhau. Vậy xin trích dẫn và phân tích bài kệ số 1 của
hai bản để tìm điểm giống nhau.
Giới vi cam lồ đạo
Phóng dật vi tử kính
Bất tham tắc bất tử
Thất đạo vi tự táng
Dịch:
Giới là đạo cam lồ
Phóng dật là lối chết
Không tham thời không chết
Mất đạo là tự chết
Appamàdo
amatapadam, |
Không phóng
dật, đường sống |
pamàdo
maccunno padam, |
Phóng
dật là đường chết |
appamattà
na mìyanti |
Không phóng
dật, không chết |
ye pamattà
yathàmatà |
Phóng
dật như chết rồi |
Qua bài kệ, ở bản Hán dịch
"Giới là đạo cam lồ". Còn bản Pàli "Không phóng
dật đường sống" nghĩa đều như nhau. Vì giới là răn như,
khuyên răn mà Đạo Phật cho là kiêng: Sát sanh, trộm cắp, tà
dâm, nói xằng, uống rượu là năm giới. Còn "Appamàda"
dịch là không phóng dật, không chao động, không lay chuyển, có
nghĩa là luôn luôn giữ tâm niệm và luôn luôn thận trọng đưa
mình đến con đường bất diệt như Cam lồ đạo. Ngữ này đồng
nghĩa với "Amatapada" là sự chuyển sang qua trạng thái
không chết. Vì "amata" nghĩa là thuốc trường sinh,
trạng thái bất tử. Cũng tương tự như : "phóng dật"
đồng nghĩa với "pamàdo" là buông thả, buông lỏng, phóng
túng nên dễ quên mình rồi sẽ đưa con người mình đến con
đường diệt vong là "Tử kính" hay "maccuno"
của vòng sanh tử luân hồi. Cho nên Đức Phật hằng khuyên chúng
sanh nên tăng tiến việc lành, nổ lực tu tập thập thiện, liên
tục kiên trì nhẫn nại, không nên phóng dật hầu mong được
an vui Niết Bàn.
3/ Bản Hán: PHẨM TÂM
Yٍ – Bản Pàli: PHẨM TÂM
Phẩm này tập hợp những bài kệ nói
về đề tài "Tâm hay Tâm ý", nghĩa là về mặt tinh
thần không hình tướng nên không có thể nhìn biết được nhưng
khi tạo tác thì không thể mất, nó vẫn tồn tại. Đó chính là
những câu kệ khuyên dạy chúng ta nên giữ vững tâm, khắc
phục tư tưởng xấu, khuyến khích chúng ta nên hướng tâm về
điều thiện và xa lánh những điều bất thiện, hầu đem lại
sự an vui cho chính mình. Với bản Hán có 12 bài kệ, bản Pàli
có 11 bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
4
|
5
|
6
|
8
|
8
|
11
|
11
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
9
|
9
|
12
|
10
|
Qua bảng so sánh trên, giữa hai văn
bản có những câu khác nhau như: bản Hán kệ số 7, số 10; còn
bản Pàli kệ số 2. Nhìn vào bảng so sánh, giữa hai văn bản có
10 bài kệ nghĩa hoàn toàn giống nhau. Để hiểu rõ vấn đề này,
xin trích dẫn và phân tích bài kệ số 2 (bản Hán) tương
đương với kệ số 3 (bản Pàli)
Khinh táo nan trì
Duy dục thị tùng
Chế ý vi thiện,
Tự điều tắc ninh.
Dịch:
Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Chế phục ý điều tốt
Tự điều liền an lạc.
Dunniggahassa
lahuno |
Khó
nắm giữ, khinh động |
yatthakàmanipàti
no |
Theo các
dục quay cuồng |
cittassa
damatho sàdhu
cittam duntam sakhàvaham |
Lành
thay, điều phục tâm
Tâm điều, an lạc đến |
Qua bài kệ cho thấy tâm vô cùng vi
tế. Với cái tâm vô hình, không có hình tướng, không có mầu
sắc, sanh diệt mau lẹ cho nên rất khó kiểm soát. Chỉ có người
thiện trí mới phòng hộ tâm theo hai pháp: 1. Niệm là sự ghi
nhớ, không lơ đảng; 2. Tỉnh giác là sự hiểu biết vi tế,
thấu rõ bản thể của tâm. Một khi cái tâm được kiểm soát
hằng đem lại an lạc hạnh phúc.
4/ Bản Hán: PHẨM
HOA HƯƠNG – Bản Pàli: PHẨM HOA
Phẩm này của hai văn bản lấy hoa làm
đề tài, hàm ngụ ý so sánh với đời sống chánh đạo của
người đệ tử Phật. Đó chính là những bài kệ ý nói tự mình
học cho được thông suốt thì thấy được sự thật của tà
ngụy và quay về với cái chơn chánh. Với bản Hán có 17 bài
kệ và bản Pàli có 16 bài kệ, ta có thể lập bảng đối
chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
6
|
5
|
10
|
9
|
14
|
13
|
2
|
2
|
7
|
6
|
11
|
10
|
15
|
14
|
4
|
3
|
8
|
7
|
12
|
11
|
16
|
15
|
5
|
4
|
9
|
8
|
13
|
12
|
17
|
16
|
Qua bảng so sánh trên, ta thấy ở
bản Hán có thêm kệ số 3. Và nhìn vào bảng, có 16 bài kệ hoàn
toàn giống nhau. Để tìm những điểm giống nhau, xin trích
dẫn và phân tích kệ số 4 (bản Hán) tương đương với kệ
số 3 (bản Pàli).
Kiến thân như mạt
Huyễn pháp tự nhiên
Đoạn ma hoa phu
Bất cố sanh tử
Dịch:
Thấy thân như nước bọt
Pháp tánh, vốn huyễn hóa
Chặt đứt bẫy ma dụ
Không còn có tử sanh.
Phenùamam kàyam
inam viditvà
marìcidhammam abhisambudhàno
chetvàna Màrassa papuppha kàni
adassanam Maccuràjassa gacche |
Biết thân
như bọt nước
Ngộ thân là như huyễn
Bẻ tên hoa của ma
Vượt tầm mắt thần chết |
Qua bài kệ, ở bản Hán dịch:
"Thấy thân nhưnước bọt", còn bản Pàli: "Biết
thân như bọt nước", đều nghĩa như nhau. Vì chữ
"kiến" là mắt trông thấy, còn hiểu là "ý
biết" đồng nghĩa với từ ngữ căn "vid", biết tìm
ra thể xác này tựa hồ như bọt nước (mạt: hay Phena: bọt);
và thấu triệt bản chất mờ ảo của nó. Từ đó ta mới tiêu
trừ những cành hoa dục vọng và vượt ra khỏi tầm mắt của
tử thần (Maccu: Sự chết) tức là "không còn có sanh
tử".
5/ Bản Hán: PHẨM
NGU ÁM – Bản Pàli: PHẨM NGU
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nêu lên tính chất sự mê muội ngu dại của người;
và phân trần để thấy được sự sáng suốt. Với người ngu
ám do vô minh che lấp, ẩn chứa trong mình ba căn bất thiện là
tham, sân, si cùng liên hệ với những việc làm sai lỗi để
gặt hái những kết quả không an lành. Vì thế, Đức Phật cho
biết người ngu không thể biết được chân lý cao siêu cho nên
phải chịu khổ thật lâu dài trong vòng sanh tử luân hồi.
Với bản Hán có 21 bài kệ và bản Pàli có 16 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
6
|
4
|
8
|
6
|
10
|
8
|
12
|
10
|
4
|
3
|
7
|
5
|
9
|
7
|
11
|
9
|
15
|
11
|
Qua bảng so sánh, ta thấy ở hai văn
bản có những bài kệ khác nhau như: Bản Hán kệ số 2, 3, 5,
13, 14, 16, 17; còn bản Pàli kệ số 2, 12, 13 14, 15, 16. Và nhìn vào
bảng trên, thấy có 10 bài kệ nghĩa đều giống nhau. Để
hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân tích kệ số 1 của hai
bản để tìm điểm giống nhau:
Bất mị dạ trường
Bì quyền đạo trường
Ngu sanh tử trường
Mạc tri chánh pháp
Dịch:
Đêm dài cho kẻ mất ngủ
Đường xa cho người mệt mỏi
Luân hồi dài cho kẻ ngu
Chưa tìm được chơn diệu pháp.
Dìghà jàgarato
ratti
digham santassa yojanam
dìgho bàlànam samsàro
saddhammam avijànatam |
Đêm dài
cho kẻ thức
Đường dài cho kẻ mệt
Luân hồi dài, kẻ ngu
Không biết chơn diệu pháp |
Qua bài kệ, bản Hán dịch : "Đêm
dài cho kẻ mất ngủ" cũng giống như bản Pàli "Đêm dài
cho kẻ thức". Vì từ "mị" là ngủ say cho nên
"bất mị" nghĩa là mất ngủ, cũng chính "jàgarato"
là không ngủ hay thức. Cho nên, kẻ mất ngủ cho rằng đêm
rất dài, người mỏi mệt cho là đường hãy còn xa thế nào?
Thì cũng giống như người ngu, do vô minh che đậy, do tham ái
khởi lên nên quan niệm có thân này. Do vậy, người ngu khi thân
hoại mạng chung lại đi thọ lãnh thân khác, và cứ tiếp tục
như thế. Do thọ lãnh, vị ấy không giải thoát khỏi sanh già,
bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy, người ngu chưa tìm
được chân lý tức chánh pháp: hay Saddhammam. Từ vô minh nên không
hiểu đây là khổ, không hiểu biết đây là khổ tập, không
hiểu biết đây là khổ diệt, và không hiểu biết đây là con
đường đi đến khổ diệt, nên họ phải chịu sanh tử luân
hồi trong thời gian vô tận.
6/ Bản Hán: PHẨM
MINH TRIẾT – Bản Pàli: PHẨM HIỀN TRÍ
Phẩm này của hai văn bản gồm các
bài kệ cho biết tính chất cao quý của người Minh Triết
(Hiền Trí), rất có ích cho chúng ta khi được gần gũi học
hỏi với những người ấy. Với bản Hán 12 bài kệ, bản Pàli
14 bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
4
|
5
|
6
|
8
|
8
|
10
|
11
|
12+13
|
2
|
2+3
|
5
|
6+7
|
7
|
9
|
10
|
11
|
12
|
14
|
Qua bảng so sánh ta thấy ở hai bản
có những bài kệ khác nhau như: kệ số 3, số 9 (bản Hán) và
kệ số 4 (bản Pàli). Và nhìn vào bảng trên, giữa hai văn
bản có 10 bài kệ, nghĩa đều giống nhau. Nhưng trong đó, bản
Pàli có 3 kệ đôi cho nên 13 bài kệ ở bản Pàli tương đương
với 10 bài kệ của Bản Hán. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn
và phân tích kệ số 5 (bản Hán) tương đương với kê số 6,
7 (bản Pàli):
Thí như hậu thạch.
Phong bất năng di
Trí giả ý trọng
Hủy dự bất khuynh
Thí như thâm uyên.
Trừng tỉnh thanh minh.
Tuệ nhân văn đạo
Tâm tịnh hoan nhiên
Dịch:
Như tảng đá vững
chắc,
Gió thổi chẵng động lay.
Người trí tâm an định,
Khen chê chẳng đổi thay. |
Như hồ nước rất
sâu
Trong lặng, sáng một màu.
Người trí huệ nghe đạo,
Tâm thanh tịnh hết sầu |
Selo yathà ekaghano,
vàtena na samìrati,
evam nindàpasamsàsu,
na saminjanti pandità.
Ya hàpi rahado gambhiro,
vippasanno anàvilo.
Evam dhammàni sutvàna,
Vippasìdanti pandità.
|
Như hồ nước
rất sâu
Trong lặng, sáng một màu.
Người trí huệ nghe đạo,
Tâm thanh tịnh hết sầu
Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê,
Người trí không giao động
Như hồ nước sâu thẳm
Trong sáng, không khuấy đục.
Cũng vậy, nghe chánh pháp
Người trí hưởng tịnh lạc |
Qua bài kệ, bản Hán dịch "Như
tảng đá vững chắc " cũng giống như ở Pàli "Như
tảng đá kiên cố". Vì chữ "Hậu" là chiều dày,
nghĩa là cái gì tốt hơn, nhiều hơn đồng nghĩa với
"Ekaghano: kiên cố". Tương tự, chữ "Di" là
dời đi, dẹp đi. Cho nên người trí biết tự kiểm soát lấy
mình, không được bồng bột, sôi nổi và cũng không được
nản lòng trước mọi thăng trầm của cuộc đời mà phải
giữ tâm vững chắc như tảng đá kiên cố, vững chắc khó lòng
lay chuyển. Một khi đạt được trạng thái như thế, ta sẽ
gặt hái được kết quả an tịnh, hạnh phúc và trí huệ như
ở Bản Hán dịch "Như hồ nước rất sâu" cũng giống
ở Pàli "như hồ nước sâu thẳm". Vì chữ "Thâm"
là bề sâu của cái ao, hồ thì nghĩa tương đương với
"gambhira" dịch là sâu thẳm. Cho nên nước ở trong hồ
yên lặng và trong suốt, không có chút cặn nào. Cũng dường như
thế ấy, người trí (hay Pandità) khi nghe pháp thì tâm của họ
sẽ vô cùng thanh tịnh. Đạo Phật lấy tâm thanh tịnh làm
cốt yếu như: Đất Phật gọi là Tịnh Độ, chỗ tu hành gọi
là Tịnh Thất v.v...Còn người tu hành cầu được về nơi
Phật ở gọi là vãng sanh Tịnh Độ. Thế nên, tâm người
thiện trí (pandità) trở nên trong sáng, được vui thích hay được
hưởng tịnh lạc (vippasìdatì).
7/ Bản Hán: PHẨM LA HÁN –
Bản Pàli: PHẨM A LA HÁN
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ đề cập đến con người nói lời chân chánh thì
thoát được cái dục, tâm không còn đắm trước. Tức là
bậc tu hành đã đoạn tận mọi lậu hoặc gọi là Bậc Ứng Cúng,
đáng được trời, người cúng dường. Bậc A La Hán còn gọi
là Vô sinh, diệt trừ được mọi thằng thúc trói buộc bằng
trí huệ và chứng ngộ Niết Bàn, không còn tái sanh nữa. Điều
đặc biệt ở hai bản đều có số lượng bài kệ bằng nhau,
và nội dung của từng bài kệ cũng giống nhau, từ kệ số 1
đến kệ số 10. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân tích
kệ số 1của hai văn bản.
Khứ ly ưu hoạn
Thoát ư nhất thiết
Phược kết dĩ giải
Lĩnh như vô noãn
Dịch:
Trước xa lìa sầu não,
Sẽ giải thoát tất cả.
Mọi trói buộc đã bỏ,
Lạnh lùng chẳng hơi ấm.
Gataddhino
visokassa
Vippamuttassa sabbadhi
Sabbaganthappahìnassa
parilàho na vijjati |
Đích đã
đến, không sầu,
Giải thoát người tất cả,
Đoạn trừ mọi buộc ràng,
Vị ấy không nhiệt não |
Qua bài kệ, đề cập đến phẩm
hạnh vị A La Hán (La Hán) có hai nhiệt độ tinh thần và vật
chất. Đối với người đã trải qua suốt cuộc hành trình,
chấm dứt mọi ưu phiền (ưu hoạn) tức là đã đến nơi
(gata), thoát khỏi sự buồn rầu (visoka). Vì khi còn sống, vị
A La Hán còn thọ cảm nhiệt độ của thể xác, nhưng không
quan tâm đến. Còn sức nóng tinh thần, nhiệt độ của tham
vọng, hay lửa tham ái vị ấy không còn nữa. Nghĩa là vị ấy
hoàn toàn siêu thoát, là giải thoát tất cả là giải thoát
(vippamatta) khắp mọi nơi (sabbadhi). Vị ấy cắt đứt mọi trói
buộc như: Tham muốn, oán ghét, v.v...Vì khi họ cảm xúc, vị
ấy không có sầu muộn, than van. Vị ấy chỉ cảm giác một
cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không cảm thọ về tâm.
Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự chấm dứt vị
ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của mọi cảm thọ. Vị Thánh
A La Hán không còn bị trói buộc của đau khổ, hoàn toàn siêu
thoát, hoàn toàn tự do, thoát ra khỏi mọi dính mắc đối với
thân ngũ uẩn.
8/ Bản Hán: PHẨM THUẬT THIÊN
– Bản Pàli: PHẨM NGÀN
Phẩm này của hai văn bản với nội
dung chính yếu cần nắm bắt là Đức Phật khuyến khích chúng
ta nên tìm cầu chất lượng tu tập hơn là số lượng. Đó chính
là tập hợp những bài kệ ý nói người học kinh, phần lớn
không cần học nhiều mà cần phải hiểu rõ. Với hai bản Hán
và Pàli đều có 16 bài kệ tương đương với nhau, ta có thể
lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
2
|
5
|
5
|
9
|
9
|
13
|
13
|
2
|
1
|
6
|
6
|
10
|
10
|
14
|
14
|
3
|
3
|
7
|
7
|
11
|
11
|
15
|
15
|
4
|
4
|
8
|
8
|
12
|
12
|
16
|
16
|
Qua bảng so sánh, để tìm hiểu sâu
về phẩm này, xin trích dẫn và phân tích bài kệ số 2 (bản Hán)
tương đương với kệ số 1 (bản Pàli).
Tuy tụng thiên ngôn
Bất nghĩa hà ích
Bất như nhất nghĩa
Văn hành khả độ
Dịch:
Dầu tụng được ngàn lời
Vô nghĩa có ích gì
Chẳng bằng hiểu một nghĩa
Nghe thực hành được độ.
Sahassam api
ce vàcà
anatthapadasamhità,
ekam atthapadam seyyo
yam sùtvà upasammati |
Dầu nói
ngàn ngàn lời
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn một câu nghĩa
Nghe xong, được tịnh lạc. |
Qua bài kệ, bản Hán dịch:
"Dầu tụng được ngàn lời", còn bản Pàli "Dầu
nói ngàn ngàn lời", nghĩa đều như nhau. Vì "tụng hay
nói" vẫn là một, cho nên dù nói rành rọt như tụng được
ngàn lời; cũng như nói ngàn (sahassa) lời nói (vàcà) nhưng không
gì lợi ích. Thật là "Vô nghĩa có ích gì?" chẳng
bằng hiểu một nghĩa. Chữ "nghĩa" ở đây được
hiểu là ý nghĩa của giáo pháp, nếu nghe và thực hành thì
được độ hay được tịnh lạc (upasammati). Vì hay
"upasammati" theo nhà Phật bảo rằng: Người ta ở cõi
đời này là cõi khổ, phải tu theo phép của Phật là vượt
qua bể khổ. Vì thế xuất gia tu hành gọi là thế độ, như sáu
phép Ba La Mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí tuệ gọi là lục độ. Nghĩa là sáu phép
khiến người trong bể khổ tu sẽ sang cõi giác vậy.
9/ Bản Hán: PHẨM
ÁC HÀNH – Bản Pàli: PHẨM ÁC
Phẩm này của hai văn bản đều
tập hợp những bài kệ nêu lên lợi ích trong việc gìn giữ tâm
cho được thiện lành và nên xa lánh điều ác xấu như chúng
ta lánh xa con đường nguy hiểm. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên xem thường điều ác mà thương xót cho những người làm
ác, tội báo không thể tránh được hoạn nạn. Với bản Hán
22 bài kệ và bản Pàli 13 bài kệ, ta có thể lập bảng đối
chiếu như:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
4
|
3
|
6
|
5
|
10
|
7
|
20
|
11
|
2
|
2
|
5
|
4
|
9
|
6
|
17
|
10
|
21
|
12
|
Qua bảng so sánh ta thấy giữa hai văn
bản có những bài kệ khác nhau như: Ở bản Hán kệ số 3, 7,
8, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 18, 19, 22; còn bản Pàli kệ số 8, 9, 13.
Và nhìn vào bảng, có 10 bài kệ nghĩa đều giống nhau. Để
hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân tích kệ số 21 (bản Hán)
tương đương với kệ số 12 (bản Pàli).
Phi không phi hải trung,
Phi ẩn sơn thạch gian
Mặc năng ư thử xứ
Tỵ miễn túc ác ương
Dịch:
Dầu hư không, biển cả.
Hay núi đá xa xôi.
Không nơi nào tránh khỏi.
Quả ác nghiệp gây rồi
Na
antalikkhe na samuddamajjhe
na pabbatànanam vivaram pavissa
na vijjati so jagatippadeso.
Yatthatthito munceyya pàpakammà |
Không trên
trời, giữa biển.
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn được quả ác nghiệp |
Qua bài kệ, giúp chúng ta thấy được
bản Hán dịch: "Dầu hư không, biển cả" cũng như
bản Pàli dịch: "Không trên trời, giữa biển". Vì
"hư không" là không gian rộng lớn, bao la, bao phủ cả
thế giới mà từ ngữ "antalikkhe" dịch là trên trời.
Còn "hải trung" tức là biển cả mênh mông thì tương
đương với ngữ "samaddamajjhe" dịch là giữa biển. Vì
thế, không phải trên trời, giữa biển hay hang núi mà người
tạo nghiệp ác lại có thể tìm được một nơi nào đó trên
thế gian để trốn lánh hậu quả của hành động bất thiện
mà mình đã gây ra. Đúng theo giáo lý của Đức Phật dạy, khi
tạo nghiệp ác thì không thể hối lộ hay gian lận bằng cách
nào mà ta có thể thay đổi được định luật nhân quả, cũng
không thể lẫn trốn nơi nào trên thế gian dầu trời rộng mênh
mông, giữa đại dương sâu thẳm, hoặc ở thâm sơn cùng cốc
mà ta tránh khỏi hậu quả của nghiệp đã tạo.
10/ Bản Hán: PHẨM
ĐAO TRƯỢNG – Bản Pàli: PHẨM HÌNH
PHẠT
Phẩm này của hai văn bản gồm
những bài kệ khuyến khích chúng ta tuyệt đối ôn hòa, không
nên gây tổn hại bất luận với một chúng sanh nào. Tìm cầu
hạnh phúc cho mình và cho người, không dùng gậy và hình phạt
gây tổn hại chúng sanh. Đức Phật dạy: Người Phật Tử
phải có lòng từ, phải giữ lấy hạnh khiêm tốn, tự chế
lấy mình và nghiêm trì trau dồi giới đức để tiêu trừ
mọi khổ đau. Với bản Hán có 14 bài kệ, còn bản Pàli có 17
bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
4
|
6
|
7
|
11
|
10
|
14
|
2
|
4
|
5
|
9
|
8
|
12
|
11
|
15
|
3
|
5
|
6
|
10
|
9
|
13
|
12
|
16
|
Qua bảng so sánh ta thấy giữa hai văn
bản có những bài kệ khác nhau: kệ số 13, 14 (bản Hán) với
kệ số 2, 3, 7, 8 (bản Pàli). Và nhìn vào bảng, lại thấy có
12 bài kệ giống nhau. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân
tích kệ số 8 (bản Hán) tương đương với kệ số 12 (bản Pàli).
Xá trạch sở hữu
Tai hỏa phần thiêu
Tử nhập địa ngục
Như thị vi thập
Dịch:
Chính nhà cửa tài sản
Bị lửa cháy tiêu tan
Mười là sau khi chết
Phải đọa vào địa ngục
Athav assa
agàràni
aggi dahati pàrako
kàyassa bhedà duppanno
nirayam sopapajjati |
Hoặc phòng
ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt
Khi thân hoại mạng chung
Ác tuệ sanh địa ngục |
Qua bài kệ, ở bản Hán dịch
"Chính nhà cửa tài sản" nghĩa cũng giống bản Pàli
dịch "Hoặc phòng ốc nhà cửa". Vì "xá
trạch", nghĩa là nhà cửa tương đương với "agàra"
dịch là nhà, chỗ ở. Nếu gây tạo thiện ác thì phước họa
sẽ theo thân như: nhà cửa bị lửa (hay aggi) cháy tiêu tan; hay
đốt cháy (dahati) là do gây tạo ác nghiệp mà phải chịu lãnh
tai họa. Cho nên, sau khi chết thì đọa vào cảnh khổ địa
ngục tức là "niraya".
11/ Bản Hán: PHẨM
LÃO MẠO – Bản Pàli: PHẨM GIÀ
Phẩm này của hai văn bản, tập
hợp những bài kệ nêu lên những lời cảnh giác của chúng ta
là lúc nào ta cũng sẵn có sự già ở trong ta, chớ buông mình
phóng túng mà gặp nhiều khó khăn và sẽ phải hối hận ăn năn
khi nhớ lại những gì đã đánh mất đi của dĩ vãng trẻ
trung. Đừng để khi già nua thì mới hối hận sự sống của mình,
mình có hối hận cũng không lợi ích gì. Ở phẩm này bản Hán
có 14 bài kệ và bản Pàli có 11 bài kệ, ta có thể lập bảng
đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
3
|
5
|
5
|
7
|
7
|
10
|
10
|
2
|
2
|
4
|
4
|
6
|
6
|
8
|
8
|
11
|
11
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như kệ số 9 (bản Pàli), còn kệ số
9, 12, 13, 14 (bản Hán). Và nhìn vào bảng, ta thấy có 10 bài
kệ giống nhau. Để hiểu rõ hơn xin trích dẫn và phân tích
kệ số 3 của hai văn bản:
Lão tắc sắc suy
Bệnh vô quang trạch.
Bì hoãn cơ súc.
Tử mệnh cận xúc
Dịch:
Già nhan sắc suy hao
Bệnh thân thể tiều tụy
Da nhăn và thịt nhão
Cái chết đã cận kề.
Parijinnam
idam rùpam
roganiddham pabhanguram
bhijjati pùtisandeho
maranantam hi jivitam |
Sắc này
bị suy già
Ổ tật bệnh, mỏng manh
Nhóm bất tịnh đổ vỡ
Chết chấm dứt mạng sống |
Qua bài kệ, bản Hán dịch: "Già
nhan sắc suy hao" cũng như bản Pàli dịch "Sắc này bị
suy già", nghĩa đều giống nhau. Vì "rùpa" dịch là
sắc tướng. Đạo Phật cho hết thảy cái gì có hình có tướng
đều gọi là sắc. Do vậy, sắc này bị già nua, hao mòn
"parijinnam" tức là sắc suy nên bệnh thân thể tiều
tụy, cũng chính là nơi phát sanh bệnh (roganiddham), mỏng manh
(padhanguram). Đến lúc da nhăn, thịt nhão là chỉ cho nhóm bất
tịnh đổ vỡ. Vì chữ "puti" là hôi thúi, ghê gớm; còn
"sandeho" là chính bản thân, cho nên chữ
"putisandeho" được dịch là chính bản thân đã hôi thúi
thì lại cho biết cái chết đã cận kề (maranantam).
12/ Bản Hán: PHẨM
ÁI THÂN – Bản Pàli: PHẨM TỰ NGÃ
Phẩm này của hai văn bản, bao gồm
những bài kệ nói về tầm quan trọng của tự ngã, tinh thần
trách nhiệm về hành động của tự ngã mình tự ngã mình. Vì
từ ngữ "Atta" dịch là tự ngã, bản ngã. Theo Phật Giáo,
không có linh hồn trường cửu hay một thực thể đơn thuần,
không biến đổi do Thượng đế tạo nên hay xuất ra từ một
linh hồn. Ở đây, danh từ "Atta" (tự ngã) còn nghĩa là
toàn thể châu thân, hoặc một cá nhân, hoặc cái tâm, hay dòng
trôi chảy của đời sống. Ở phẩm này, với bản Hán có 13 bài
kệ, và bản Pàli có 10 bài kệ, điểm đặc biệt từ bài kệ
số 1 đến số 10 của hai văn bản có nghĩa hoàn toàn giống
nhau. Chỉ có bản Hán thêm kệ số 11,12,13. Vậy xin trích dẫn
và phân tích kệ số 1 của hai văn bản để tìm điểm giống
nhau.
Tự ái thân giả
Thận hộ sở thủ
Hy vọng dục giải
Học chính bất mị
Dịch:
Người biết quý thân mình
Cẩn thận luôn giữ gìn
Mong giải trừ các dục
Học đạo chẳng mê tình.
Attànam ce
piyam jannà
rakkheyya nam surakkhitam
tinnam annataram surakkhitam
patijaggeyya pandito |
Nếu
biết yêu tự ngã
Phải khéo bảo vệ mình
Người trí trong ba canh
Phải luôn luôn tỉnh thức |
Qua bài kệ, ở bản Hán dịch:
"Người biết quý thân mình", còn bản Pàli "nếu
biết yêu tự ngã" thì ở hai bản nghĩa đều giống nhau. Vì
"Ái" là yêu thích, yêu mến, yêu quý, thương mến
v.v...mà tiếng Pàli dịch là "piya". Con người phải
cẩn thận, khéo léo, giữ gìn và bảo vệ mình. Bởi chính con
người là kẻ tự cứu mình và là ánh sáng soi rọi con đường
cho mình. Tự ngã của con người là sản phẩm của một chuỗi
các hành động không ngừng biến dịch. Vì thế, tự ngã của
con người thì không trường cửu và cũng không bí ẩn cho nên
con người phải mong đoạn trừ các dục để học đạo chẳng
mê tình tức là con người lúc nào cũng phải giác tỉnh
(pandita) phòng bị.
13/ Bản Hán: PHẨM
THẾ TỤC – Bản Pàli: PHẨM THẾ GIAN
Phẩm này của hai văn bản tập hợp
những bài kệ mà người đời nói thế gian huyễn mộng phù
hoa, cần nương vào đạo mà tu hành. Chữ "Thế Gian",
Đức Phật chỉ cho chúng ta về mặt thời gian của đời
sống, bao gồm kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai, và thế gian
của tam giới gồm Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới về
mặt không gian. Còn theo nghĩa bóng của "Thế gian" thì
Đức Phật dùng để chỉ về thân ngũ uẩn của chúng sanh.
Với bản Hán có 14 bài kệ, bản Pàli có 12 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
4
|
4
|
8
|
8
|
3
|
3
|
5
|
5
|
10
|
12
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: Kệ số 2, 6, 7, 9,11, 12 (bản Pàli),
và kệ số 2, 6, 7, 9, 10, 11, 13, 14 (bản Hán). Còn lại có 6 bài
kệ, nghĩa của 6 bài kệ giống nhau hoàn toàn. Để hiểu rõ hơn,
xin trích dẫn và phân tích kệ số 3 của hai văn bản:
Thuận hành chánh đạo
Vật tùy tà nghiệp
Hành trụ ngọa an
Thế thế vô hoạn
Dịch:
Thực làm chánh đạo.
Chớ theo tà nghiệp
Đi, đứng, nằm an
Đời đời vô hoạn
Dhammam care
sucaritam
na nam duccaritam care
dhammacàrì sukham seti
asmim loke paramhi ca |
Hãy khéo
sống chánh hạnh
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau. |
Qua bài kệ, cho thấy phàm làm người
và nhất là người đệ tử Phật nên phải thực hành theo chánh
đạo. Nghĩa là con đường chân chánh để tu hành đến nơi
giải thoát mà tiếng Pàli gọi là Dhamma. Chớ làm theo tà
nghiệp là người có những ý tưởng xấu xa hướng về dục
lạc. Sống buông lung, phóng túng, tạo những hành động thấp
hèn, mê lầm v.v...rồi phải chịu nhiều khổ đau. Do đó, người
theo chánh đạo hay chánh hạnh thì tâm sẽ được thanh thản,
an lạc khi đi đứng nằm ngồi, và ngay cả đời này, đời sau
không bị tai hoạn.
14/ Bản Hán: PHẨM
THUẬT PHẬT – Bản Pàli: PHẨM PHẬT ĐÀ
Phẩm này, tập hợp những bài kệ nói
về đề tài "Phật Đà" hay "Thuật Phật". Là
Đấng Giác Ngộ chân chánh, đã tỉnh giác vô minh, thông suốt
lý Tứ Đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng hiểu biết. Đức
Phật tự sát chứng vị trí của mình khi Ngài nói với Tôn
giả Xá Lợi Phất (Sàriputa): "Những ai nói về ta một cách
chân chánh sẽ nói như sau: Một vị hữu tình không bị chi
phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì an lạc cho chư thiên
và nhân loài" (Trung Bộ I, số 83). Cho nên Ngài không chẳng
phải chỉ lợi ích độ cho thế gian được sáng suốt mà còn
cho được lợi ích sáng suốt thực tế. Với bản Hán có 21 bài
kệ, và bản Palì có 18 bài kệ, ta có thể lập bảng đối
chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
9
|
6
|
13
|
9
|
16
|
12
|
20
|
15
|
2
|
2
|
10
|
7
|
14
|
10
|
17
|
13
|
21
|
16
|
5
|
4
|
11
|
5
|
15
|
11
|
18
|
14
|
|
|
Qua bảng so sánh, ta thấy giữa hai văn
bản có những bài kệ khác nhau như: Kệ số 3, 8, 17, 18 (Bản Pàli)
và kệ số 3, 4, 7, 8, 12, 19 (bản Hán). Chỉ có 14 bài kệ của
hai văn bản là hoàn toàn giống nhau. Vậy xin trích dẫn kệ
số 5 (bản Hán) tương đương với kệ số 4 (bản Pàli) để
thấy điểm giống nhau:
Đắc sanh nhân đạo nan
Sanh thọ diệc nan đắc
Thế gian hữu phật nan
Phật pháp nan đắc văn
Dịch:
Khó thay sanh làm người!
Khó thay được sống còn!
Khó thay Phật ra đời!
Khó thay được nghe pháp!
Kiccho
manussapatilàbho
Kiccham maccàna jìvitam
Kiccham saddhammasavanam
Kiccho Buddhànam uppàdo |
Khó
thay, được làm người
Khó thay, được sống còn
Khó thay, nghe diệu pháp
Khó thay, Phật ra đời |
Qua bài kệ, ta thấy nghĩa bài kệ
của hai văn bản hoàn toàn giống nhau.
15/ Bản Hán: PHẨM
AN NINH – Bản Pàli: PHẨM AN LẠC
Phẩm này, bao gồm những bài kệ
với đề tài "An lạc" hay "An Ninh", nghĩa là
được bình an, xa lìa cái ác tức là vui đẹp mà không bị đọa.
An lạc trong Phật Giáo có hai loại: 1. An lạc về vật chất
(nặng về thế tục), 2. An lạc về tinh thần gọi là (An lạc
trong hạnh phúc), là cái vui trong sạch không nương vào các
cảnh, vật, người; là cái vui yên lặng khỏi phiền não. An
lạc ngoài thế tục là cái vui phát sanh do sự hỗn hợp với
cảnh, vật, người và phiền não; là cái vui tạm bợ, nhất
thời, xen lẫn nhiều khổ đau. Với bản Hán có 14 bài kệ và
bản Pàli có 12 bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như
sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
3
|
6
|
5
|
10
|
10
|
12
|
12
|
2
|
2
|
4
|
4
|
7
|
6
|
11
|
7
|
14
|
9
|
Qua bảng so sánh, ta thấy giữa hai văn
bản có những bài kệ khác nhau như: kệ số 8, 11 (bản Pàli) và
kệ số 5, 8, 9, và số 13 (bản Hán). Và nhìn vào bảng có 10 bài
kệ tương đương với nhau. Để hiểu rõ hơn xin trích dẫn và
phân tích kệ số 1 của hai văn bản:
Ngã sinh dĩ an
Bất uấn ư oán
Chúng nhân hữu oán
Ngã hành vô oán
Dịch:
Ta sống đã yên.
Không chứa oán hờn
Giữa người hờn oán
Ta không oán hờn.
Susukham
vatajìvàma
verinesu averino
verinesu manussesu
viharàma averino |
Vui thay,
chúng ta sống
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận.
Ta sống, không hận thù. |
Qua bài kệ cho ta thấy tâm an tịnh còn
gọi là tâm yên lặng tức là sự an vui không pha lẫn với
một cái gì cả, thoát khỏi tất cả những cái vui của ngũ
dục.v.v...không bị khích động bởi tham, sân, si. Do vậy, chúng
ta sống đến một lúc nào đó tâm ta được an tịnh, nghĩa là
không có oán và hờn, không có hận thù. Khi đã được trạng
thái như vậy thì dù giữa những người hờn oán, thù hận ta
vẫn sống không oán hờn, hận thù.
16/ Bản Hán: PHẨM
HẢO HỶ– Bản Pàli: PHẨM HỶ ÁI
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ với ý nghĩa cấm người dỡn cợt nhiều, không
tham dục tức sẽ không ưu phiền, lo âu. Với nội dung nêu lên
hai khía cạnh của Hỷ Ái-Hảo Hỷ, gồm "hỷ ái thông thường"
là xuôi theo pháp thế gian, hiện thân của những căn gốc tham,
sân, si thì những hỷ ái đó đáng ghê sợ và xa lánh. Hỷ ái
khước từ thế gian, vun bồi chánh tri kiến, thành đạt chứng
ngộ chân lý, xứng đáng cho mọi người ái kính, và kiên cố
trong giáo pháp. Đó là chín trạng thái siêu thế gian gồm bốn
Đạo, bốn Quả và Niết Bàn. Chứng ngộ chân lý tối thượng
và Tứ Thánh Đế (Khổ-Tập-Diệt-Đạo). Tự hoàn thành nhiệm
vụ, viên mãn mọi hạnh là thực hành đầy đủ Giới – Định
– Tuệ. Bậc như vậy đáng ái kính trong đời. Đối với
phẩm này, cả hai văn bản đều có 12 bài kệ, ta có thể lập
bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
3
|
5
|
5+6
|
7
|
9
|
9
|
11
|
2
|
2
|
4
|
4
|
6
|
7+8
|
8
|
10
|
10
|
12
|
Qua bảng so sánh, ta thấy ở bản Hán
có thêm kệ số 11, 12. Và nhìn vào bảng có 10 bài kệ, nghĩa
của từng kệ giống với nhau. Nhưng trong đó, bản Pàli có 2
kệ đôi cho nên 12 bài kệ ở bản Pàli tương đương với 10 bài
kệ của bản Hán. Để tìm hiểu sâu hơn, xin trích dẫn và phân
tích kệ số 4 của hai văn bản.
Ái hỷ sanh ưu
Ái hỷ sanh úy
Vô sở ái hỷ
Hà ưu hà úy
Dịch:
Tham vui sanh ra lo
Tham vui sanh ra sợ
Nếu không có tham vui
Đâu còn lo và sợ
Piyato jàyati
soko
piyato jãyati bhayam
piyato vippamattassa
natthi soko, kuto bhayam? |
Do ái
sinh sầu ưu
Do ái sinh sợ hãi
Ai thoát khỏi tham ái
Không sầu, đâu sợ hãi |
Qua bài kệ, cho thấy giữa hai kệ
của hai văn bản đều do Ái (Piya) mà sanh ra sầu ưu (Soka), sinh
ra sợ hãi (Bhaya). Vì "ái" gọi đủ là "ái
dục", là mầm móng, nguyên nhân của bao khổ đau. Con người
do vô minh mới lầm tưởng cho cái giả là thật, cho cái khổ là
vui, mới có thân yêu ham muốn, say mê theo ngũ trần dục lạc.
Giá như những ai biết cái nhân của các việc khổ là gốc
bởi lòng tham muốn, bằng cách dứt lòng tham muốn thì cái
khổ không còn chỗ sanh khởi. Nghĩa là không còn lo và sợ
nữa.
17/ PHẨM PHẪN NỘ
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ mang ý nghĩa về những lời Đức Phật khuyên
dạy chúng ta: Hãy cố gắng dứt bỏ tâm sân hận, chế ngự tâm
phẫn nộ và trau dồi đời sống cao thượng, giữ hạnh chân
thật, nhẫn nại v.v...sẽ dần dần đưa con người chúng ta đến
chỗ thanh cao siêu thoát. Với bản Hán có 26 bài kệ và bản Pàli
có 14 bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
3
|
2
|
6
|
5
|
9
|
8
|
12
|
11
|
15
|
14
|
4
|
3
|
7
|
6
|
10
|
9
|
13
|
12
|
|
|
5
|
4
|
8
|
7
|
11
|
10
|
14
|
13
|
|
|
Qua bảng so sánh giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: Kệ số 1 (bản Pàli) và kệ số
1, 2, và số 16 đến số 26 (bản Hán). Và nhìn vào bảng, có 13
bài kệ giống nhau. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân tích
kệ số 4 (bản Hán) tương đương với kệ số 3 (bản Pàli).
Nhẫn nhục thắng khuể
Thiện thắng bất thiện
Thắng giả năng thí
Chí thành thắng khi
Dịch:
Nhẫn nhục thắng tức giận
Thiện thắng được không thiện
Bậc trí thường bố thí
Chân thật thắng dối lừa
Akkodhena
jine kodham
asàdhum sàdhunà jine
jine kadariyam dànena
saccena alikavàdinam |
Lấy không
giận thắng giận
Lấy thiện thắng không thiện
Lấy thí thắng xan tham
Lấy chân thắng hư ngụy |
Qua bài kệ, cho thấy con người là
một chúng sanh huyền bí có nhiều tiềm năng phi thường. Có
hai năng lực trái ngược luôn luôn ẩn chứa trong mỗi người,
một là hướng về cao thượng trong sạch, đặc tánh của bậc
thánh nhân; và một loại hướng về điều tội lỗi, dơ bẩn
của kẻ sát nhân tàn bạo. Đặc tính của phẫn nộ, tức
giận hay "Kodha" là một tật xấu; và bất thiện hay
"asàdhu" là điều kiện làm cho chính mình bị xấu xa,
không tốt đẹp. Cho nên, Đức Phật khuyên dạy chúng ta phải
xử dụng "tâm từ" và thực hành "thập
thiện" hầu đem lại cho chính mình nhiều sự an lạc.
"Bậc trí thường bố thí" nghĩa là người sáng suốt,
học cao, hiểu rộng luôn bố thí với tâm quảng đại là người
đang tự diệt lần mọi luyến ái ngấm ngầm trong tâm. Và sự
giả dối ắt hẳn không đem lại an lạc cho những ai tạo ra
những điều ấy. Chỉ có hạnh chân thật hằng đem lại an vui
hạnh phúc cho người chân thiện cho nên chân thật thắng dối
lừa hay "alika"
18/ Bản Hán: PHẨM
TRẦN CẤU – Bản Pàli: PHẨM CẤU UẾ
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nêu lên những uế trược, ô nhiễm làm cho tâm
bị dơ đục gây ra những hành động tội lỗi. Và trình bày
con đường chánh hạnh làm tiêu trừ các ô nhiễm, uế hạnh.
Với bản Hán có 19 bài kệ và bản Pàli có 21 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
3
|
5
|
7
|
9
|
10
|
12
|
13
|
15
|
17
|
17
|
5
|
7
|
8
|
10
|
11
|
13
|
14
|
16
|
18
|
20
|
6
|
8
|
9
|
11
|
12
|
14
|
16
|
19
|
19
|
21
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: Kệ số 1, 2, 3, 4, 6, 18 (bản Pàli)
và kệ số 1, 2, 3, 15 (bản Hán). Và nhìn vào bảng, có 15 bài
kệ tương đương nghĩa với nhau. Để hiểu rõ hơn, xin trích
dẫn và phân tích kệ số 7 (bản Hán) tương đương với kệ
số 9 (bản Pàli).
Cấu trung chi cấu
Mạc thậm ư si
Học đương xả ác
Tỳ kheo vô cấu
Dịch:
Dơ trong các thứ dơ
Ngu si là hơn hết
Tu học dứt nghiệp ác
Thành Tỳ Kheo vô cấu
Tato malà
malataram
avijjà paramam malam
etam malam pahatvàna
nimmalà hotha bhikkhavo. |
Trong hàng
cấu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng
Đoạn nhơ ấy Tỳ Kheo
Thành bậc không uế nhiễm |
Qua bài kệ, cho thấy cội gốc của
mọi pháp cấu uế làm cho tâm dơ đục thường là tham, sân, si
và ái dục gọi chung là vô minh "Avijjà". Vì vô minh nên
không hiểu biết, không nhận thức được điều lành, điều
ác. Và chính vô minh là nguyên nhân đầu tiên làm tâm trở nên
hèn hạ, xấu xa, làm điều tội lỗi, chịu nhiều khổ đau
của nghiệp ác mà mình đã gây ra. Vị Tỳ Kheo (Bihikkhu) muốn
trở thành bậc không uế nhiễm thì phải tu học dứt trừ: năm
pháp triền cái, mười sáu pháp tuỳ phiền não, tám pháp cấu
uế tâm và chín pháp ô trược tâm.
19/ Bản Hán: PHẨM
PHỤNG TRÌ – Bản Pàli: PHẨM PHÁP TRỤ
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nói về đời sống chánh hạnh, giảng giải đạo
nghĩa, lấy chánh pháp đức hạnh làm quý, không có tham lam mà
nương vào giới luật tìm lấy hạnh phúc. Ðiều đặc biệt,
số kệ ở phẩm này của hai văn bản bằng nhau. Trong đó có
15 bài kệ, nghĩa tương đương với nhau từ kệ số 3 đến
số 17 của hai bản. Chỉ còn lại kệ số 1, 2 của hai bản khác
nhau. Ðể tìm hiểu giống nhau, xin trích dẫn và phân tích kệ
số 4 của hai văn bản:
Phụng trì pháp giả
Bất dĩ đa ngôn
Tuy tố thiểu văn
Thân y pháp hành
Thủ đạo bất vong
Khả vị phụng pháp
Dịch:
Người phụng trì chánh pháp
Không phải tụng, nói nhiều
Tuy rằng nghe, học ít
Song y pháp hành trì
Giữ đạo không quên lãng
Là phụng trì pháp tạng.
Na tàvatà
dhammadharo
yàvatà bahu bhàsati
yo ca appam pi sutvàna
dhammam kàyena passati
sa ve dhammadharo hoti
yo dhammam nappamajjati |
Không
phải vì nói nhiều
Mới xưng danh trì pháp
Những ai tuy nghe ít
Nhưng thân hành đúng pháp
Không phóng túng chánh pháp
Mới xứng danh trì pháp |
Qua bài kệ, rõ ràng cho thấy người
Phật Tử phụng trì chánh pháp không phải vì tụng nói nhiều
mà là người phải cố gắng tránh giữ những điều không nên
làm, phải biết khép mình trong giới luật để sống đời
sống lý tưởng. Do vậy, giới luật là nền tảng của tất
cả đức hạnh cho nên đời sống hướng thượng của người
đệ tử là sống nương tựa theo giới luật.
20/ Bản Hán: PHẨM
ĐẠO HẠNH – Bản Pàli: PHẨM ĐẠO
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nói về đạo cốt yếu là đạo giải thoát. Đó
là chỉ cho con đường của bậc Thánh có tám ngành, là con đường
duy nhất dẫn đến Niết bàn, là con đường thanh tịnh, dẫn
đến chứng ngộ tam tướng (vô thường, khổ đau, vô ngã)
của thế gian xa rời mọi phiền não, tuệ tri Tứ Thánh Đế.
Với bản Hán có 28 bài kệ và bản Pàli có 17 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
4
|
5
|
8
|
9
|
11
|
13
|
16
|
17
|
2
|
2
|
5
|
6
|
9
|
11
|
14
|
15
|
|
|
3
|
3
|
6
|
8
|
10
|
12
|
15
|
16
|
|
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: kệ số 7, 12, 13, 17 đến số 28
(bản Hán) và kệ số 4, 7, 10, 14 (bản Pàli). Và nhìn vào bảng
có 13 bài kệ nghĩa tương đương với nhau. Xin trích dẫn và phân
tích kệ số 16 (bản Hán) tương đương với kệ số17 (bản Pàli),
để tìm điểm giống nhau.
Tuệ giải thị ý
Khả tu kinh giới
Cần hành độ thế
Nhất thiết trừ khổ
Dịch:
Tuệ tri được ý nầy
Nên tu trì kinh giới
Siêng tu vượt thế gian
Dứt trừ tất cả khổ
Etam
atthavasam natvà
pandito silasamvuto
nibbànagamanammaggam
khippam eva visodhaye |
Biết rõ
ý nghĩa này
Bậc trí lo trì giới
Mau lẹ làm thanh tịnh
Con đường đến Niết Bàn |
Qua bài kệ, Đức Phật hằng khuyên
chúng ta phải biết tự chế thân tâm, kiểm soát mọi hành vi,
tư tưởng đúng theo lẽ phải (giới), khi giới đức được
vun bồi hoàn hảo thì tinh thần trở nên thơ thới nhẹ nhàng,
an tỉnh (định). Cái tâm an tịnh, vắng lặng, sáng ngời đưa
tới sự minh triết rõ ràng như mảnh gương trong sáng (tuệ) để
thấu rõ bản chất của vạn vật trên vũ trụ đúng theo thực
tại, nghĩa là thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã, rồi đoạn
tận tam độc tham, sân, si; phá vỡ thân ngũ uẩn luôn biến đổi
vô lường. Do vậy, các bậc Thánh thoát khỏi mọi hệ lụy
của thế gian, đạt thành hạnh phúc trường cửu siêu xuất
thế gian – Niết Bàn.
21/ Bản Hán: PHẨM
QUÃNG DIỄN – Bản Pàli: PHẨM TẠP
LỤC
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ có nhiều ý nghĩa về mọi mặt, thích hợp trong
việc suy niệm và hoạch định cho mình một hướng đi an lành.
Cũng có nghĩa, phàm giữ gìn điều thiện ác từ việc nhỏ cho
đến việc lớn để mà chứng đạo. Với bản Hán có 14 bài
kệ và bản Pàli có 16 bài kệ, ta có thể lập bảng đối
chiếu như sau:
Hán
|
Páli
|
Hán
|
Páli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
3
|
3
|
7
|
15
|
9
|
12
|
13
|
14
|
2
|
2
|
4
|
4
|
8
|
8
|
10
|
13
|
14
|
16
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: kệ số 5, 6, 11, 12 của bản Hán và
kệ số 5, 6, 7, 9, 10, 11 bản Pàli. Và nhìn vào bảng có 10 bài
kệ, nghĩa tương đương với nhau. Vậy xin trích dẫn và phân tích
kệ số 14 (bản Hán) tương đương với kệ số 16 (bản Pàli).
Nhất tọa nhất xứ ngọa
Nhất hành vô phóng tứ
Thủ nhất dĩ chánh thân
Tâm lạc cư thọ gian
Dịch:
Ngồi nằm hay đi đứng
Không phóng dật, tinh cần
Luôn chánh thân giữ đạo
An vui sống núi rừng
Ekàsanam
ekaseyyam
eko caram atandito
eko damayam attànam
vanante ramito siyà |
Ai ngồi
nằm một mình
Độc hành không buồn chán
Tự điều phục một mình
Sống thỏa mái rừng sâu |
Qua bài kệ, Đức Phật khuyên chúng
ta không nên phóng dật, buồn chán khi sống một mình; mà nên
cố gắng thiền định, tự khép mình vào kỷ luật, tự kiểm
soát, tự thanh lọc tâm và giác ngộ. Từ đó, mới có thể
nhận thức được rằng vật chất là ảo huyền và thú vui
vật chất là không tạo hạnh phúc thực sự. Người Phật Tử
tự nguyện lìa bỏ tất cả sự nghiệp trên đời để khoác
lấy tấm y vàng và cố gắng sống hoàn toàn trong sạch. Tự
nguyện giữ gìn giới luật và ráng sức nâng cao đức hạnh đến
tột cùng để trở nên hoàn toàn vị tha trong mọi hành động.
Do vậy, vị ấy sống an vui thỏa mái trong núi rừng.
22/ PHẨM ĐỊA NGỤC:
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ diễn tả những cảnh khổ của những người làm
việc ác, đọa vào địa ngục nê lê, thọ tội ác oan khiên.
Qua đó nhắc nhở chúng ta luôn thức tỉnh với mỗi hành động
của mình vì cảnh khổ luôn chực chờ với người tạo ác.
Với bản Hán có 16 bài kệ và bản Pàli có 14 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
5
|
5
|
8
|
8
|
13
|
11
|
16
|
14
|
2
|
2
|
6
|
6
|
9
|
9
|
14
|
12
|
|
|
4
|
4
|
7
|
7
|
12
|
10
|
15
|
13
|
|
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: Kệ số 3 (bản Pàli) và kệ số
3, 10, 11 (bản Hán). Và nhìn vào bảng trên có 13 bài kệ nghĩa
tương đương với nhau. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân
tích kệ số 1 của hai văn bản.
Vọng ngữ địa ngục cận
Tác chi ngôn bất tác
Nhị tội hậu câu thụ
Thị hành tự khiên vãng
Dịch:
Nói dối gần địa ngục
Có làm nói không làm
Cả hai có quả báo
Qua lại trong sanh tử
Abhùtavàdi
nirayam upeti
yo càpi katvà na karomì ti càha
ubho pi te pecca samà bhavanti
nihinakammà manujà parattha |
Nói láo
đọa địa ngục
Có làm nói không làm
Cả hai chết đồng đẳng
Làm người nghiệp hạ liệt |
Qua bài kệ cho thấy "nói không
thật" vào cảnh khổ và người đã làm rồi nói "tôi
không có làm" cũng chịu cảnh khổ. Sau khi chết, cả hai đều
phải chịu lãnh hậu quả xấu từ nơi hành động ác mình đã
tạo. Chúng ta biết trong thập ác nghiệp nương theo ba nơi (ba
thân, bốn lời, ba ý) để tạo nghiệp đến với người khác
hay một chúng sanh khác. Do đó, Đức Phật dùng hình ảnh địa
ngục để cho chúng ta có nhận thức rằng: Đó là nơi chúng
sanh phải chịu nhiều khổ đau, bị đánh đập, hành hạ, tra
tấn vô cùng thảm khốc và khổ sở. Tuy nhiên, chúng ta không nên
nghĩ rằng chỉ có một cảnh giới địa ngục ở thật xa với
nhân loại của chúng ta, cũng có thể ở ngay trong chúng ta,
hiện hữu ngay trong thế gian này với những người đã làm
những hành động xấu xa giữa người với người rồi cuối cùng
chính hành động ác đó làm cho người tạo ác phải chịu
lấy bao nỗi khổ đau.
23/ Bản Hán:PHẨM
TƯỢNG DỤ – Bản Pàli: PHẨM VOI
Phẩm này của hai văn bản đều
tập trung những bài kệ vào đề tài "Voi", là biểu tượng
của một loài thú to lớn, có nhiều năng lực phi thường,
chịu đựng được bao điều khó khăn. Với biểu tượng hàm
ngụ ý lên đức hạnh nhẫn nại phi thường, trọng điểm để
thành đạt chân lý siêu thoát. Điều đặc biệt giữa hai văn
bản, hoàn toàn tương đương với nhau từ kệ số 1 đến số
14, nghĩa của từng bài kệ đềⵠgiống nhau. Tuy nhiên, ở
bản Hán có thêm kệ số 15, 16, 17, 18. Để hiểu rõ hơn, xin trích
dẫn và phân tích kệ số 5 của hai văn bản.
Như tượng danh tài thủ
Mãnh hại nan cấm chế
Hệ bán bất dữ thực
Nhi do mộ dật tượng
Dịch:
Như voi tên tài Thủ
Khó kềm chế hung hăng
Trói lại chẳng cho ăn
Vẫn khăng khăng nết cũ
Dhanapàlako
nàma kunjaro
katukappabhedano dunnivàrayo
baddho kabalam na bhunjati
sumarati nàgavannassa kunjaro |
Con voi tên
Tài Hộ
Phát dục, khó điều phục
Trói buộc, không ăn uống
Voi nhớ đến rừng voi |
Qua bài kệ, cho thấy người huấn
luyện voi để điều phục được voi có ba việc: Dùng móc thép
móc vào miệng để chế phục sự cang cường, hung hăng. Không
cho ăn uống để thân thể suy yếu, dễ dạy. Và đánh đập chính
là chế phục tâm nó. Còn Đức Phật cũng có ba việc dùng để
điều phục tất cả mọi người, sẽ độ thoát tất cả, lìa
ba đường ác, và trước nhất dùng để tự điều phục mình
đến được vô vi, không còn sanh tử, ưu bi khổ não. Ba việc
ấy là: Lấy chí thành điều phục khẩu nghiệp Lấy từ bi
trong sạch điều phục tâm cang cường Lâý trí tuệ diệt trừ
ngu si che ngăn của ý
24/ Bản Hán: PHẨM
ÁI DỤC – Bản Pàli: PHẨM THAM ÁI
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nêu những tính nguy hại của ái dục. Nghĩa là
điều dâm dục ân ái của người đời sinh ra rất nguy hại.
Do vậy, Đức Phật khuyên chúng ta mau cố gắng đoạn tận
mọi phiền não của ái dục. Với bản hán có 32 bài kệ và
bản Pàli có 26 bài kệ, ta có thể lập bảng đối chiếu như
sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
8
|
5
|
12
|
8
|
17
|
14
|
24
|
20
|
27
|
25
|
2
|
2
|
10
|
6
|
14
|
12
|
18
|
16
|
25
|
21
|
|
|
3
|
3
|
11
|
7
|
15
|
13
|
19
|
17
|
26
|
22
|
|
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: Kệ số 4, 5, 6, 7, 9, 13, 16, 20, 21,
21, 22, 23, 28, 29, 30, 31, 32 (bản Hán) và kệ số 4, 9, 10, 11, 15,
18, 19, 23, 24, 26 (bản Pàli). Và nhìn vào bảng cho thấy 16 bài
kệ, nghĩa tương đương với nhau, xin trích dẫn và phân tích
kệ số 8 (bản Hán) tương đương với kệ số 5 (bản Pàli)
Như thọ căn thâm cố
Tuy tiệt du phục sanh
Ái ý bất tận trừ
Triếp đương hoàn thụ khổ
Dịch:
Như cây rễ sâu chắc
Dầu chặt vẫn đâm cành
Tâm ái chưa dứt tuyệt
Khổ não lại phát sanh
Yathàpi mùle
anupaddave dalhe
chinno pi rukkho punareva rùhati
evam pi tanhànusaye anùhate
nibbattatì dukkham idam punappunam |
Như cây
bị chặt đốn
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tuỳ miên chưa nhổ
Khổ này vẫn sanh hoài |
Qua bài kệ cho thấy "tâm ái"
được ví như cây rễ sâu chắc, dù chặt đốn nhưng gốc cây
chưa triệt hẳn thì nó vẫn đâm chồi trổ lá. Cũng vậy, tâm
ái còn gọi là ái dục (Tanhà) chưa dứt tuyệt thì khổ não
vẫn phát sanh. Bởi ái dục có nghĩa là luyến ái, khát khao, bám
víu. Có ba loại ái dục: 1: Ái dục đeo níu theo sáu căn, sáu
trần; 2: Ái dục đeo níu theo những khoái lạc vật chất có liên
quan đến chủ trương đoạn kiến hay triệt diệt trong lúc hưởng
dục, nghĩ rằng tất cả sẽ tiêu diệt sau khi chết. Cho là
chết là hết; 3: Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất có
liên quan đến chủ trương thường kiến tức là trong khi thọ
hưởng, nghĩ rằng những khoái lạc này sẽ mãi mãi tồn tại,
vĩnh cửu trường tồn.
25/ Bản Hán: PHẨM
SA MÔN – Bản Pàli: PHẨM TỶ KHEO
Phẩm này của hai văn bản đều
tập hợp những bài kệ trình bày đời sống phạm hạnh chân
chánh của một người đệ tử Phật. Nghĩa là sống hạnh khước
từ mọi cuộc vui thú thế gian để chọn lấy đời sống tu sĩ,
tự chế các hành động, điều ngự các căn để chỉ nhằm vào
mục tiêu duy nhất là giải thoát Niết Bàn. Và chính vị Sa Môn
này dạy chánh pháp cho đệ tử lãnh thọ tu hành để đắc đạo
giải thoát thanh tịnh. Với bản Hán có 32 bài kệ và bản Pàli
có 23 bài kệ ta có thể lập bảng đối chiếu như sau :
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
5
|
6
|
9
|
10
|
13
|
14
|
17
|
18
|
21
|
22
|
2
|
2
|
6
|
7
|
10
|
11
|
14
|
15
|
18
|
19
|
22
|
23
|
3
|
4
|
7
|
8
|
11
|
12
|
15
|
16
|
19
|
20
|
|
|
4
|
5
|
8
|
9
|
12
|
13
|
16
|
17
|
20
|
21
|
|
|
Qua bảng so sánh giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: kệ số 3 (bản Pàli) và kệ số
23, 24 đến kệ số 32 (bản Hán). Và giữa hai văn bản có 22 bài
kệ giống nhau, xin trích dẫn và phân tích kệ số 18 (bản Hán)
tương đương với kệ 19 (bản Pàli) để tìm điểm giống
nhau.
Chỉ thân chỉ ngôn
Tâm thủ huyền mặc
Tỳ kheo khí thế
Thị vi thụ tịch
Dịch:
Thân ngưng lời cũng ngưng
Tâm an trú thiền định
Tỳ Kheo lìa thế tục
Là bậc thường tịch tịnh
Santakàya
santavàco
Santavà susamàhito
vantalokàmiso bhikkhu
upasanto ti vuccati |
Thân
tịnh, lời an tịnh
An tịnh, khéo thiền tịnh
Tỳ Kheo bỏ thế vật
Xứng danh "bậc tịch tịnh" |
Qua bài kệ cho thấy rằng vị Tỳ
Kheo luôn tinh tấn trau dồi trí tuệ, đồng thời cũng tự
thấy có bổn phận giúp đỡ những người khác cùng tiến hóa
với mình, luôn học hỏi để trở nên sáng suốt. Không làm
phiền ai, không muốn cho ai phải lo lắng về mình, các vị Tỳ
Kheo sống như loài ong biết hút mật của hoa nhưng không làm
tổn thương đến đời sống của hoa. Từ bỏ tất cả sự
nghiệp của cải, không giữ lấy một món chi của thế gian.
Nhu cầu của một vị Tỳ Kheo thật là ít ỏi. Bao nhiêu tài
sản của các vị này chỉ gồm vỏn vẹn trong hạnh tri túc.
26/ Bản Hán: PHẨM
PHẠM CHÍ – Bản Pàli : PHẨM BÀ LA MÔN
Phẩm này của hai văn bản bao gồm
những bài kệ nêu lên tính hạnh với đầy đủ ý nghĩa của
một vị Bà La Môn, không vì sanh trưởng trong một gia đình ở
giai cấp Bà La Môn mà trở thành vị Bà La Môn. Nhưng vì họ đã
thành đạt mục tiêu tối thượng, chứng đắc quả A La Hán
giải thoát, thành đạt chân lý và đầy đủ chánh hạnh. Cũng
đồng nghĩa với "Phạm Chí" là lời nói việc làm
thanh bạch của người học đạo gọi là đạo sĩ cao thượng.
Với bản Hán có 40 bài kệ và bản Pàli có 41 bài kệ, ta có
thể lập bảng đối chiếu như sau:
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
Hán
|
Pàli
|
1
|
1
|
8
|
8
|
15
|
15
|
22
|
22
|
31
|
31
|
38
|
39
|
2
|
2
|
9
|
9
|
16
|
16
|
25
|
25
|
32
|
32
|
39
|
40
|
3
|
3
|
10
|
10
|
17
|
17
|
26
|
26
|
33
|
34
|
40
|
41
|
4
|
4
|
11
|
11
|
18
|
18
|
27
|
27
|
34
|
35
|
|
|
5
|
5
|
12
|
12
|
19
|
19
|
28
|
28
|
35
|
36
|
|
|
6
|
7
|
13
|
13
|
20
|
20
|
29
|
29
|
36
|
37
|
|
|
7
|
6
|
14
|
14
|
21
|
21
|
30
|
30
|
37
|
38
|
|
|
Qua bảng so sánh, giữa hai văn bản có
những bài kệ khác nhau như: kệ số 23, 24 (bản Hán) và kệ
số 23, 24, 33 (bản Pàli). Và giữa hai văn bản có 38 bài kệ tương
đương nghĩa với nhau. Để hiểu rõ hơn, xin trích dẫn và phân
tích kệ thứ 40 (bản Hán) tương đương với kệ 41 (bản Pàli).
Tự tri túc mạng
Bổn sở cánh lai
Đắc yếu sanh tận
Duệ thông đạo huyền
Minh như năng mặc
Thị vị phạm chí
Dịch:
Tự biết túc mạng mình
Vốn từ đâu lại đây
Đạt được sanh diệt tận
Thông tỏ được đạo mầu
Sáng suốt và vắng lặng
Đó gọi là Phạm chí
Pubbenivàsam
yo vedì
saggàpàyan ca passati
atho jàtikkhayam patto
abhinnà vosito muni
sabbavositavo sànam
tam aham brùmi bràhmanam |
Ai biết
được đời trước
Thấy thiện giới, đọa xứ.
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà La Môn |
Qua bài kệ, cho thấy bậc Hiền Thánh
đã thấu hiểu chỗ ở trước của mình (Pubbenivàsa), đã
thấy những cảnh nhàn và khổ. Đã đến mức tận cùng của
mọi kiếp sống, người đã với trí tuệ cao siêu, tự mình
cải tiến và hoàn tất đời sống phạm hạnh thiêng liêng và
chấm dứt mọi dục vọng. Vị ấy Như Lai gọi là Bà La Môn.
C. KẾT
LUẬN
Bắt đầu đi vào nghiên cứu một văn
bản, chúng ta luôn luôn gặp nhiều nguồn tài liệu phát xuất
từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi một ngôn ngữ phải được coi
như đại biểu cho một nền văn học truyền khẩu của một
lớp người hội thoại bằng nó. Nói cách khác, ở tiểu luận này
kinh Pháp Cú thuộc hai ngữ hệ Hán và Pàli nên hình thức và tư
tưởng giữa hai văn bản trên có phần khác nhau. Cụ thể ở văn
bản chữ Hán chia làm hai quyển Thượng và quyển Hạ; và trong
39 phẩm thì 13 phẩm không có ở văn bản Pàli. Từ đó, dẫn
tới tư tưởng của hai văn bản cũng có khác. Chẳng hạn những
phẩm khác nhau học lý, như 13 phẩm ở bản Hán tập trung vào 13
đề tài mà bản Pàli được xem như thiếu: Vô thường, Giáo
học, Đa văn, Đốc tín, Giới thận, Duy niệm, Từ nhân, Ngôn
ngữ, Lợi dưỡng, Nê hoàn, Sinh tử, Đạo lợi, Kiết tường.
Nội dung 13 đề tài này nằm gọn trong 256 bài kệ.
Và ngay những phẩm giống nhau, thì
số lượng bài kệ khác nhau như bản Hán: Phẩm Song Yếu thêm
kệ số 15,16. Phẩm Phóng Dật thêm kệ số 11,12,15,16,17,18,19,20.
Phẩm Hoa thêm phẩm số 3.v.v...
Thậm chí trong các phẩm giống nhau nhưng
số thứ tự bài kệ không giống nhau như: Phẩm Song Yếu, kệ
số 17,18,19,20,21,22 (bản Hán) tương đương kệ số
15,16,17,18,19,20, (bản Pàli); phẩm Phóng Dật, kệ số 13,14 (bản
Hán) tương đương kệ số 11,12 (bản pàli); phẩm Tâm Ý, kệ
số 2,3,4,5,6,12 (bản Hán) tương đương kệ số 3,4,5,6,7,10 (bản
Pàli).v.v...
Và cụ thể trong những bài kệ giống
nhau thì số câu trong những bài kệ ấy khác nhau như: phẩm Song
Yếu, bản Hán kệ số 21 có 6 câu tương đương bản Pàli kệ
số 19 có 4 câu. Phẩm Ác Hành, bản Hán kệ số 9 có 6 câu tương
đương bản Pàli kệ số 6 có 4 câu. Phẩm Trần Cấu, bản Hán
kệ số 13 có 4 câu tương đương bản Pàli kệ số 15 có 6 câu.v.v...
Qua phần trình bày những số liệu ở
trên nhằm nhấn mạnh giữa hai văn bản có những diều khác
nhau. Vì vậy có những sự sai khác ấy? Người viết thiết nghĩ,
trong tương lai cần làm rõ hơn nữa. Ngay văn bản kinh Pháp Cú,
thực ra có những câu nằm trong văn học Ấn Độ từ lâu. Phật
giáo lấy từ Ấn Độ hay Ấn Độ lấy từ Phật giáo là một
lẽ nữa. Đây cũng chính là vấn đề cần nghiên cứu trong tương
lai.
Nhìn chung, việc nghiên cứu so sánh
kinh Pháp Cú chữ Hán và chữ Pàli thuộc hai hệ phái khác nhau.
Ở Hán tạng dịch từ một ngôn ngữ Phật giáo Nguyên thủy nào
đó? Dưới ánh sáng những nghiên cứu của Lueders, câu trả lời
tất phải khẳng định: Chúng chỉ là những dịch giả với
một mức độ tự trị nào đó. Nói là dịch ngữ tự trị, vì
chúng không phải là dịch ngữ thuần túy, mà là những ngôn
ngữ nhằm chuyển hóa tư tưởng nguyên thủy Phật giáo cho tất
cả mọi người ở nhiều từng lớp xã hội và địa phương khác
nhau. Việc chuyển hóa tư tưởng này như một việc thuyết giáo
của những thành viên tổ chức trong Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam ta ngày nay. Đối với hết thảy học phái, hết thảy thánh
điển của Phật, chúng ta không thể nào quyết định tính thực
tại của mỗi học phái, mỗi thánh điển. Chúng ta còn phải đối
diện với những sai lầm có thể của quá trình chuyển hóa từ
một ngôn ngữ nguyên thủy qua những ngôn ngữ truyền khẩu khác
nhau, để rồi kết đọng một cái nhìn đồng nhất, đồng
diện giáo lý các hệ phái dựa vào niềm tin rằng sự thật
của các pháp không thể có hai. Từ đó, giúp cho mọi người đồng
tôn sùng quy ngưỡng và tự do lựa chọn chớ không theo sai
lệch.
Vì thế, kinh Pháp Cú mãi cho đến bây
giờ vẫn được xem là bộ kinh truyền khẩu rất sớm. Và hiện
nay, kinh này là bộ kinh nhật tụng quý báu cho hàng Tăng giới
xuất gia hành trì; và hàng cư sĩ tại gia cũng lấy đó phụng hành
để sống một đời sống an lành thanh khiết. Vì hình ảnh trong
kinh Pháp Cú là hình ảnh một con người bằng nỗ lực tu tập
của tự thân đã đạt được giác ngộ, giải thoát. Đó chính
là hình ảnh Đức Phật – Đấng tuệ giác viên mãn; là đối tượng
hướng thượng con người; là nhà đạo đức học vĩ đại của
nhân loại. Mỗi hành vi hay lời nói của Ngài đều đem lại sự
an vui mát mẻ cho tất cả mọi người. Ngài luôn luôn sống trong
sự mát mẻ. Chánh pháp của Đức Phật là một phương thuốc mát
gồm toàn là những điều đúng theo chân lý và có lợi ích. Tuy
nhiên, Đức Phật chỉ là một vị đạo sư, một người chỉ
đường. Học theo chánh pháp của Ngài, ta phải tự nỗ lực tu
tập, rồi cũng như Đức Phật khắc phục chướng ngại để
truyền bá chánh pháp, xây dựng một đời sống thiết thực nhân
bản cho toàn nhân loại. Chính Đức Phật đã xác định và tuyên
bố không ai là đạo sư của Ngài. Đức Phật là bậc vô sư mà
chúng ta cần phải nên nhớ, đó là:
"Ta hàng phục
tất cả
Ta rõ biết tất cả
Không bị nhiễm pháp nào
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát
Đã tự mình thắng trí
Ta – ai gọi thầy ta?"
(Dhammapada – kệ số 353)
Ni Sinh Thích Nữ
Nguyệt Chiếu
Trường Cao Cấp Phật Học. TP. Hồ Chí Minh. Khoa IV.
Source: Phật Học Thường Thức,
Taiwan, http://www.phathocthuongthuc.com/
[Mục lục][Thư
mục Việt ngữ] [BuddhaSasana Main Page]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét